Kinh Bi Hoa – PHẨM THỨ SÁU – PHÁP MÔN NHẬP ĐỊNH

Kinh Bi Hoa - PHẨM THỨ SÁU - PHÁP MÔN NHẬP ĐỊNH

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Đại Bồ Tát Tịch Ý: “Thiện nam tử! Nay ta dùng

Phật nhãn nhìn khắp các thế giới mười phương nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, các vị Phật Thế Tôn đã nhập Niết-bàn ở những thế giới ấy thảy đều do ta trước đây đã khuyên dạy, giáo hóa cho từ lúc mới phát tâm A-nậu-đa- la Tam-miệu Tam-bồ-đề, rồi thực hành pháp Bố thí ba-la- mật, cho đến pháp Bát-nhã ba-la-mật. Cho đến các vị Phật Thế Tôn trong đời vị lai cũng là như vậy.

“Thiện nam tử! Nay ta nhìn thấy vô lượng vô biên a-tăng- kỳ chư Phật Thế Tôn ở các thế giới về phương đông kia, đang trong đời hiện tại này chuyển bánh xe chánh pháp, cũng đều là do ta trước đây đã khuyên dạy, giáo hóa cho từ lúc mới phát  tâm  A-nậu-đa-la  Tam-miệu  Tam-bồ-đề, thực hành sáu pháp ba-la-mật. Về phương nam, phương tây, phương bắc, cho đến bốn phương phụ(1) và phương trên, phương dưới cũng là như vậy.

(1) Bốn phương phụ: chỉ các phương đông nam, đông bắc, tây nam và tây bắc.

“Thiện nam tử! Về phương đông cách đây tám mươi chín ức thế giới chư Phật, có thế giới kia tên là Thiện Hoa, ở đó có Phật hiệu là Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, hiện nay đang vì chúng sinh thuyết pháp. Đức Phật ấy cũng do ta trước đây đã khuyên dạy, giáo hóa cho từ lúc mới phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam- bồ-đề, khiến cho thực hành pháp Bố thí ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật.

“Về phương đông lại có thế giới Diệu Lạc, ở đó có Phật hiệu là A-súc Như Lai. Lại có thế giới Diêm-phù, ở đó có Phật hiệu là Nhật Tạng Như Lai. Lại có thế giới tên là Lạc Tự Tại, ở đó có Phật hiệu là Lạc Tự Tại Âm Quang Minh Như Lai. Lại có thế giới tên là An Lạc, ở đó có Phật hiệu là Trí Nhật Như Lai. Lại có thế giới tên là Thắng Công Đức, ở đó có Phật hiệu là Long Tự Tại Như Lai. Lại có thế giới tên là Thiện Tướng, ở đó có Phật hiệu là Kim Cang Xưng Như Lai. Lại có thế giới tên là Giang Hải Vương, ở đó có Phật hiệu là Quang Minh Như Lai. Lại có thế giới tên là Bất Ái Nhạo, ở đó có Phật hiệu là Nhật Tạng Như Lai. Lại có thế giới tên là Ly Cấu Quang Minh, ở đó có Phật hiệu là Tự Tại Xưng Như Lai. Lại có thế giới tên là Sơn Quang Minh, ở đó có Phật hiệu là Bất Khả Tư Nghị Vương Như Lai. Lại có thế giới tên là Tụ Tập, ở đó có Phật hiệu là Đại Công Đức Tạng Như Lai. Lại có thế giới tên là Hoa Quang Minh, ở đó có Phật hiệu là Quang Minh Âm Tướng Như Lai. Lại có thế giới tên là An Hòa Sí Thạnh, ở đó có Phật hiệu là An Hòa Tự Tại Kiến Sơn Vương Như Lai. Lại có thế giới tên là thiện địa, ở đó có Phật hiệu là Tri Tượng Như Lai. Lại có thế giới tên là Hoa Cái, ở đó có Phật hiệu là Nhãn Tịnh Vô Cấu Như Lai.

“Thiện nam tử! Vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chư Phật hiện tại ở phương đông như vậy, đều vì chúng sinh chuyển bánh xe chánh pháp. Khi các đức Phật này chưa phát tâm Bồ-đề Vô thượng, thảy đều là do ta khuyên dạy, giáo hóa, khiến cho phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, lại cũng dẫn dắt đến chỗ của chư Phật Thế Tôn ở khắp mười phương. Tùy mỗi nơi được dẫn dắt đến, các vị đều chuyên tâm tu hành, trụ yên trong pháp Bố thí ba-la-mật cho đến Bát-nhã ba-la-mật, liền được thọ ký quả A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-bồ-đề.

“Bấy giờ, tại thế giới Thiện Hoa ở phương đông của đức Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương, tòa sư tử của đức Phật ngồi cùng với mặt đất đều chấn động đủ sáu cách, có ánh hào quang rực rỡ chiếu sáng, không trung mưa xuống đủ mọi loại hoa sen quý báu, đẹp đẽ. Các vị Bồ Tát ở đó thấy những việc như vậy thì hết sức kinh ngạc, đều cho là chưa từng có, liền bạch Phật: ‘Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà tòa ngồi của đức Như Lai chấn động như thế? Chúng con xưa nay thật chưa từng thấy sự việc như vậy!’

“Đức Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương liền bảo các vị Bồ Tát: ‘Thiện nam tử! Về phương tây cách đây tám mươi chín ức thế giới chư Phật, có một thế giới tên là Ta- bà, ở đó có Phật hiệu là Thích-ca Mâu-ni Như Lai, hiện nay đang vì Bốn bộ chúng thuyết dạy về nhân duyên tu tập giáo pháp của chính ngài. Đức Phật Thế Tôn ấy khi còn là Bồ Tát, đã khuyên dạy giáo hóa ta lần đầu tiên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, lại dẫn dắt  ta  đến  chỗ của chư Phật, bước đầu dạy ta thực hành pháp Bố thí ba-la-mật, cho đến pháp Bát-nhã ba-la-mật. Thuở ấy ta tùy theo mỗi nơi được dẫn dắt đến liền được thọ ký quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

“Đức Phật Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni kia chính là vị thiện tri thức chân thật của ta. Hiện nay ngài đang ở giữa đại chúng nơi phương tây, vì Bốn bộ chúng mà thuyết kinh nói về nhân duyên tu tập của ngài. Do sức thần túc của đức Như Lai ấy nên khiến cho tòa ngồi của ta chấn động.

“Thiện nam tử! Nay trong các ông, ai có thể đến cõi thế giới Ta-bà kia dâng lời thăm hỏi đức Phật ấy, việc đi đứng của ngài có được nhẹ nhàng hay chăng?’

“Khi ấy, các vị Bồ Tát thảy đều bạch Phật: ‘Thế Tôn! Ở thế giới Thiện Hoa này, các vị Bồ Tát thảy đều đã được thần thông, đối với các công đức của hàng Bồ Tát đều được tự tại. Hôm nay sáng sớm trời trong, được nhìn thấy ánh hào quang rực chiếu. Hào quang này đều là từ các thế giới của chư Phật soi chiếu đến đây. Mặt đất ngay khi ấy chấn động đủ sáu cách, không trung rơi xuống đủ mọi loại hoa. Thấy việc như vậy nên có vô lượng trăm ngàn vạn ức vị Bồ Tát muốn dùng thần lực hiện đến thế giới Ta-bà để được gặp đức Phật Thích-ca Mâu-ni, cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen, lại cũng muốn học hỏi pháp môn Đà-la-ni Giải liễu nhất thiết. Tuy nhiên, không ai biết được thế giới Ta-bà của đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở tại nơi nào?’

“Đức Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương liền duỗi cánh tay phải có màu vàng ròng, từ nơi năm đầu ngón tay phóng ra đủ mọi sắc hào quang rực rỡ, vi diệu. Hào quang ấy tức thời soi chiếu qua khỏi tám mươi chín ức thế giới chư Phật, đến tận thế giới Ta-bà. Bấy giờ, các vị Bồ Tát do nơi hào quang ấy mà thấy được thế giới Ta-bà có các vị Đại Bồ Tát đông đảo, đầy khắp thế giới. Lại có chư thiên, rồng, thần, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu- la-già… cũng đông đảo đầy khắp trên không trung.

“Các vị Bồ Tát nhìn thấy như vậy rồi liền bạch Phật: ‘Thế Tôn! Nay chúng con đã được nhìn thấy thế giới Ta-bà, biết được thế giới ấy ở đâu, lại cũng được thấy các vị Bồ Tát và chư thiên, đại chúng đông đảo đầy khắp cõi ấy, không còn lấy một chỗ trống. Đức Phật Thích-ca lại cũng nhìn thấy chúng con, thuyết dạy pháp mầu.’

“Đức Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương bảo các vị Đại Bồ Tát: ‘Thiện nam tử! Đức Thích-ca Như Lai thường dùng Phật nhãn thanh tịnh quán sát khắp hết thảy, không có gì không nhìn thấy. Thiện nam tử! Tất cả những chúng sinh ở thế giới Ta-bà, dù ở trên mặt đất hay ở giữa không trung, hết thảy đều nói rằng: Đức Phật Thích-ca chỉ riêng nhìn thấy trong tâm ta, chỉ riêng vì ta thuyết pháp.

“Thiện nam tử! Đức Phật Thích-ca ấy chỉ dùng một âm thanh, vì đủ các loài chúng sinh khác nhau mà thuyết pháp, nhưng mỗi loài chúng sinh thảy đều tùy theo tiếng nói của mình mà nghe hiểu được. Ngài không dùng những âm thanh khác nhau để thuyết pháp cho nhiều người. Chúng sinh ở thế giới ấy, những ai thờ phụng Phạm thiên sẽ nhìn thấy thân Như Lai như hình tượng Phạm thiên, liền được nghe thuyết pháp. Nếu những ai thờ phụng Ma thiên, Thích thiên, Nhật nguyệt Tỳ-sa-môn thiên, Tỳ-lâu-lặc, Tỳ-lâu- bác-xoa, Đề-đầu-lại-trá, Ma-hê-thủ-la… tám vạn bốn  ngàn loài chúng sinh khác nhau đều như vậy, mỗi chúng sinh đều nhìn thấy thân Như Lai là hình tượng của mình thờ phụng, liền được nghe thuyết pháp, đều nghĩ rằng Như Lai chỉ riêng vì mình thuyết pháp.

“Khi ấy, trong chúng hội có hai vị Bồ Tát, một người tên là La-hầu-điện, một người tên là Hỏa Quang Minh. Đức Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương bảo hai vị Bồ Tát ấy rằng: ‘Thiện nam tử! Nay các ông có thể đến thế giới Ta-bà, thay ta dâng lời thăm hỏi đức  Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni, ngài đi đứng có được nhẹ nhàng, khí lực có được an ổn hay chăng?’

“Hai vị Bồ Tát liền bạch Phật: ‘Thế Tôn! Chúng con nhìn thấy khắp hết thế giới của đức Phật Thích-ca, đại chúng tụ họp đông đảo, trên mặt đất cũng như giữa không trung đều chật kín, không có lấy một chỗ trống. Nếu chúng con đến đó thì biết đứng vào nơi đâu?’

“Đức Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương bảo: ‘Các thiện nam tử! Các ông chớ nên nói rằng ở thế giới kia không còn chỗ đứng. Vì sao vậy? Vì cõi thế giới Phật Thích- ca rộng lớn vô biên. Công đức vô lượng của đức Phật Thích- ca không thể nghĩ bàn. Do bản nguyện của ngài, lòng đại bi rộng lớn nên khiến cho vô lượng các loài chúng sinh đều được vào trong Phật pháp, thọ nhận Ba quy y, sau đó lại vì chúng sinh thuyết dạy giáo pháp Ba thừa. Lại truyền dạy Ba thứ giới luật,(1) chỉ bày Ba môn giải thoát,(2) lại cứu vớt

(1) Ba thứ giới luật: Gồm có: 1. Giới luật cho người tại gia: tức Tám trai giới (Bát quan trai giới); 2. Giới luật cho người xuất gia: tức Mười giới của sa-di Cụ túc giới (250 giới) của bậc tỳ-kheo; 3. Giới luật cho cả người tại gia và xuất gia: tức Năm giới căn bản.

(2) Ba môn giải thoát: Gồm có Không giải thoát môn, Vô tướng giải thoát môn Vô nguyện giải thoát môn. Kinh Nhân vương dạy rằng: “Ba môn giải thoát này vô lượng vô biên chúng sinh ra khỏi ba đường ác, khiến cho được trụ yên trong ba đường thiện.(1)

“Thiện nam tử! Lại có một lúc, đức Thích-ca Như Lai thành đạo Vô thượng chưa bao lâu, vì muốn điều phục chúng sinh nên ngài ở tại núi Tỳ-đà, trong động Nhân-bà- la, trải qua bảy ngày bảy đêm ngồi kết già nhập tam-muội, hưởng niềm vui giải thoát. Khi ấy thân Phật biến hóa lớn lên choán đầy cả động ấy, không còn một chỗ trống nào, dù chỉ là đôi ba tấc.

“Vừa hết bảy ngày, ở các thế giới khắp mười phương có mười hai na-do-tha vị Đại Bồ Tát hiện đến thế giới Ta-bà đứng quanh ven núi Tỳ-đà, muốn được gặp đức Thích-ca Mâu-ni Như Lai để cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen xưng tán và thưa hỏi pháp mầu.

“Thiện nam tử! Khi ấy đức Thích-ca Như Lai từ nơi chỗ ngồi dùng sức đại thần túc khiến cho hang động ấy trở nên rộng lớn vô biên, có thể dung chứa được mười hai na-do-tha vị Đại Bồ Tát. Các vị Bồ Tát thảy đều vào được trong động, đều thấy trong động ấy rộng lớn trang nghiêm. Có những vị Bồ Tát dùng sức thần túc tự tại để cúng dường đức Phật, rồi mỗi vị Bồ Tát đều hóa hiện tòa báu để ngồi trên ấy nghe thuyết pháp.

“Thiện nam tử! Đức Phật Thích-ca hiện thần lực như vậy. Các vị Bồ Tát ấy được nghe thuyết pháp rồi liền từ nơi tòa là chỗ tu tập căn bản của hàng Bồ Tát từ khi mới phát tâm cho đến lúc đạt địa vị Nhất thiết trí.”

(1) Ba đường ác Ba đường thiện: Chúng sinh do nghiệp lực mà phải luân hồi trong sáu đường, hay sáu cõi, là cõi trời, cõi người, cõi a-tu-la, cõi địa ngục, cõi ngạ quỷ cõi súc sinh. Tạo nghiệp thiện được sinh về các cõi trời, người hoặc a-tu-la, nên gọi là ba đường thiện. Ngược lại, tạo nghiệp ác phải thọ sinh vào các cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, nên gọi là ba đường ác.

ngồi đứng dậy, cúi đầu sát đất kính lễ Phật, đi quanh cung kính ba vòng về bên phải, rồi mỗi vị đều quay trở về cõi Phật của mình. Các vị vừa ra đi thì động ấy liền thu nhỏ lại như cũ.

“Trong Bốn cõi thiên hạ ấy có vị Thiên chủ cõi trời Đao-lợi tên là Kiều-thi-ca, mạng sống sắp hết, chắc chắn phải đọa vào loài súc sinh. Do việc ấy nên Kiều-thi-ca sinh lòng sợ hãi, liền cùng với tám mươi bốn ngàn vị chư thiên cõi trời Đao-lợi hiện xuống động Nhân-bà-la, muốn được gặp đức Như Lai.

“Bấy giờ có một quỷ dạ-xoa tên là Vương Nhãn là thần động ở đó, đang đứng canh giữ ngoài cửa động. Khi ấy Đế- thích do oai lực của Phật liền khởi lên ý nghĩ rằng: ‘Nay ta nên sai khiến vị càn-thát-bà tên là Bát-già-tuần(1) hiện đến chỗ Phật trước, dùng những âm thanh vi diệu để xưng tán ngợi ca Như Lai, khiến cho đức Thế Tôn ra khỏi tam-muội.’

(1) Bát-già-tuần: phiên âm từ tiếng Phạn là Pañcābhijñāna, tên gọi này có nghĩa là Năm phép thần thông (Ngũ thông).

“Thiện nam  tử!  Thích-đề-hoàn-nhân suy nghĩ như vậy rồi, liền sai vị càn-thát-bà Bát-già-tuần dùng đàn quý bằng ngọc lưu ly khảy lên những âm thanh vi diệu. Những âm thanh ấy có đến năm trăm âm hưởng khác nhau, được dùng để xưng tán đức Như Lai.

“Thiện nam tử! Khi vị Bát-già-tuần đang dùng âm nhạc vi diệu để xưng tán Phật, đức Như Lai lại chuyển sang nhập Tam-muội Tướng. Do sức của tam-muội này, ngài hiện sức thần lớn lao, khiến cho các dạ-xoala-sátcàn-thát-bà, a-tu-la,  ca-lâu-la,   khẩn-na-la,   ma-hầu-la-già,   cùng   với chư thiên hai cõi Dục giới Sắc giới, tất cả đều tụ tập vào trong động. Những chúng sinh nào thích nghe âm thanh vi diệu, liền tùy theo ý thích được nghe, nghe rồi trong lòng hết sức hoan hỷ; những chúng sinh nào thích nghe ngợi khen xưng tán Phật, khi nghe ngợi khen xưng tán Phật rồi trong lòng hoan hỷ, đối với đức Như Lai sinh lòng tôn trọng, cung kính; những chúng sinh nào thích nghe tiếng nhạc liền được nghe, nghe rồi trong lòng hoan hỷ.

“Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni liền ra  khỏi  tam- muội, thị hiện cho tất cả đại chúng đều được nhìn thấy cửa động Nhân-bà-la. Thích-đề-hoàn-nhân liền tiến  đến  chỗ Phật, cúi đầu kính lễ sát dưới chân Phật, rồi đứng sang một bên, thưa hỏi rằng: ‘Bạch Thế Tôn! Nay chúng con nên ngồi ở đâu?’

“Đức Phật đáp: ‘Kiều-thi-ca! Tất cả quyến thuộc của ông hãy cứ tụ họp vào cả bên trong. Nay ta sẽ làm cho động Nhân-bà-la này trở nên hết sức rộng rãi, có thể dung chứa được đại chúng quyến thuộc của ông nhiều như số cát mười hai con sông Hằng, tất cả đều có chỗ ngồi.’

“Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni ở giữa đại chúng dùng một âm thanh mầu nhiệm để giảng thuyết chánh pháp, khiến cho tám mươi bốn ngàn chúng sinh có căn cơ khác nhau thảy đều tùy theo sở thích của mình mà được nghe.

“Trong đại chúng, hoặc có những người học theo Thanh văn thừa đều nghe ra giáo pháp Thanh văn, liền có chín mươi chín ức chúng sinh chứng quả Tu-đà-hoàn;(1) hoặc có những người tu học theo Duyên giác thừa liền được nghe giáo pháp Duyên giác; hoặc có những người tu học Đại thừa liền được nghe chỉ toàn giáo pháp Đại thừa.

(1) Tu-đà-hoàn: phiên âm từ tiếng Phạn là srota-panna, dịch nghĩa là Nhập lưu, hiểu theo nghĩa là “bắt đầu nhập vào dòng thánh”. Đây là quả vị đầu tiên trong bốn quả vị của Thanh văn thừa, nên cũng gọi là Sơ quả.

“Những vị đứng đầu trong số càn-thát-bà cùng đi với Bát- già-tuần có mười tám na-do-tha đều được địa vị không còn thối chuyển đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ- đề. Những ai chưa phát tâm liền phát tâm Bồ-đề Vô thượng, hoặc phát tâm Duyên giác, hoặc phát tâm Thanh văn.

“Lúc bấy giờ, Thích-đề-hoàn-nhân liền dứt trừ được sự sợ hãi, tuổi thọ tăng thêm một ngàn năm, chứng được quả Tu-đà-hoàn.

“Thiện nam tử! Đức Phật Thích-ca dùng thần lực có thể tạo ra sự rộng lớn vô biên. Âm thanh thuyết pháp của ngài cũng rộng lớn vô biên, không ai có thể tìm biết được giới hạn trong âm thanh thuyết pháp của ngài.

“Đức Phật Thích-ca có vô lượng vô biên phương tiện để giáo hóa chúng sinh. Không ai có thể biết được những phương tiện như vậy.

“Thiện nam tử! Sắc thân của đức Phật Thích-ca cũng vô lượng vô biên, không ai có thể đo lường được thân ấy, không ai thấy được đỉnh đầu của ngài.

“Thiện nam tử! Đại chúng đông đảo như vậy, nếu như muốn vào cả trong bụng Phật, bụng Phật liền dung chứa được tất cả. Khi vào trong bụng rồi, nếu lại muốn thấy được chỗ mép cùng của bụng cũng là điều không thể được. Dù vậy, bụng Phật không hề lớn lên hay nhỏ đi.

“Nếu như hết thảy các loài chúng sinh muốn đi lại trong một sợi lông của Phật, liền được như vậy không có gì trở ngại, thậm chí nếu dùng thiên nhãn cũng không thể thấy được tới chỗ mép cùng một lỗ chân lông của Phật. Dù vậy, lỗ chân lông ấy cũng không hề lớn lên hay nhỏ đi. Thân của đức Phật Thế Tôn ấy vô lượng vô biên như vậy. Thiện nam tử! Thế giới của đức Phật ấy cũng vô lượng vô biên.

“Thiện nam tử! Ví như tất cả chúng sinh ở các thế giới mười phương nhiều như số cát của một con sông Hằng cùng gom cả về trong thế giới của Phật ấy cũng vẫn dung chứa hết. Vì sao vậy? Chỗ phát khởi thệ nguyện của đức Phật ấy lúc mới phát tâm Bồ-đề là vô lượng vô biên.

“Thiện nam tử! Đừng nói là chúng sinh trong các thế giới mười phương nhiều như số cát của một con sông Hằng, cho đến chúng sinh trong các thế giới mười phương nhiều như số cát của một ngàn con sông Hằng cùng gom cả về trong thế giới của Phật ấy cũng vẫn dung chứa hết, mà hình tướng ban đầu của thế giới ấy vẫn không hề thay đổi lớn lên hay nhỏ đi.

“Thiện nam tử! Đức Phật Thích-ca khi vừa mới phát tâm Bồ-đề Vô thượng, vì muốn được đầy đủ trí hiểu biết tất cả nên phát lời thệ nguyện hết sức lớn lao. Do đó mà nay được thế giới rộng lớn vô lượng vô biên. Thiện nam tử! Đức Phật Thích-ca Mâu-ni có bốn pháp này,(1) tất cả các đức Phật Thế Tôn khác đều không sánh bằng.

(1) Kinh văn dùng以是四法 (dĩ thị tứ pháp)mà không giải thích gì thêm. Có vị cho rằng tứ pháp ở đây chỉ bốn pháp “giáo, lý, hành, quả”. Chúng tôi xét thấy nếu là bốn pháp này thì chư Phật Thế Tôn đều không khác nhau. Hơn nữa, kinh văn nói “bốn pháp này” (thị tứ pháp) có nghĩa là đã được nói đến trước đó. Do vậy, chúng tôi căn cứ vào các đoạn văn trước đó mà hiểu bốn pháp ở đây chỉ bốn việc vừa trình bày trước đó. Đó là, đức Phật Thích-ca Mâu-ni thế giới rộng lớn vô lượng vô biên, năng lực thuyết pháp vô lượng vô biên, sắc thân rộng lớn vô lượng vô biên và phương tiện độ sinh vô lượng vô biên.

“Thiện nam tử! Nay các ông hãy mang theo loại hoa thanh tịnh nguyệt quang minh vô cấu này, đi về phương tây, đến thế giới Ta-bà nơi các ông đã được nhìn thấy, thay ta kính lời thăm hỏi đức Phật Thích-ca, ngài đi đứng có được nhẹ nhàng, khí lực có được an ổn hay chăng?’

“Khi ấy, đức Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương liền cầm hoa quý nguyệt quang minh vô cấu trao cho hai vị Bồ Tát, bảo rằng: ‘Nay tất cả các ông hãy nương theo sức đại thần thông của ta mà đi đến thế giới Ta-bà.’

“Bấy giờ, trong chúng hội có hai vạn Bồ Tát cùng bạch Phật rằng: ‘Thế Tôn! Xin vâng theo lời dạy. Nay chúng con sẽ nương sức đại thần thông của Phật mà đi đến thế giới Ta- bà, gặp đức Thích-ca Như Lai, cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen xưng tán.’

“Đức Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương liền dạy: ‘Thiện nam tử! Đã đến lúc các ông nên đi rồi vậy.’

“Khi ấy, Bồ Tát La-hầu-điện Bồ Tát Hỏa Quang Minh liền cùng với hai vạn Bồ Tát nương sức đại thần thông của Phật, vừa rời khỏi thế giới Thiện Hoa trong khoảnh khắc liền hiện đến thế giới Ta-bà, tại núi Kỳ-xà-quật, đến quỳ trước đức Phật Thích-ca, chắp tay bạch Phật rằng: ‘Thế Tôn! Về phương đông cách đây tám mươi chín cõi thế giới Phật, có một thế giới tên là  Thiện Hoa,  ở đó có  Phật hiệu là Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương, hiện đang có đại chúng Đại Bồ Tát vây quanh cung kính, ngợi khen xưng tán công đức vô lượng của Thế Tôn. Đức Phật ấy nói rằng: Thế giới Ta-bà có đức Phật Thích-ca Mâu-ni hiện nay đang vì đại chúng chuyển bánh xe chánh pháp. Đức Phật Thế Tôn ấy khi còn là Bồ Tát đã khuyên dạy, giáo hóa ta lần đầu tiên phát tâm Bồ-đề. Do nhân duyên ấy mà ta được phát tâm đạo Vô thượng. Ta phát tâm rồi, đức Phật ấy lại khuyên dạy ta tu tập sáu pháp ba-la-mật… ’

“Các vị Bồ Tát này lặp lại hết thảy những lời đức Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương đã nói, cho đến ngợi khen đức Phật Thích-ca Mâu-ni có bốn pháp mà tất cả các vị Phật Thế Tôn khác đều không sánh bằng. Rồi các vị nói tiếp: ‘Vì thế, đức Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương trao hoa quý thanh tịnh nguyệt quang minh vô cấu này cho chúng con mang đến cúng dường Thế Tôn, dâng lời thăm hỏi rằng Như Lai đi đứng có được nhẹ nhàng, khí lực có được an ổn hay chăng?’

“Thiện nam tử! Khi ấy, tòa sư tử của đức Phật A-súc đang ngồi ở thế giới Diệu Lạc về phương đông cũng chấn động theo sáu cách, lại cũng có vô lượng các vị Đại Bồ Tát thấy việc như vậy liền thưa hỏi Phật: ‘Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà tòa sư tử của Như Lai đang ngồi lại chấn động theo sáu cách như vậy…’ Đức Phật A-súc cũng trả lời như Phật Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương. Cho đến ở tất cả các thế giới khác về phương đông cũng đều như vậy.

“Bấy giờ, từ phương đông có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ vị Đại Bồ Tát thảy đều hiện đến thế giới Ta-bà này, tất cả đều mang theo hoa quý thanh tịnh nguyệt quang minh vô cấu đến gặp Phật Thích-ca, cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen xưng tán.

“Thiện nam tử! Như vậy, vô số chư Phật ở phương đông đều sai khiến các Bồ Tát đến đây ngợi khen xưng tán ta.

“Thiện nam tử! Nay ta lại nhìn thấy về phương nam, cách thế giới này số cõi Phật nhiều như số cát của một con sông Hằng, có một thế giới tên là Ly Chư Ưu, ở đó có Phật hiệu là Vô Ưu Công Đức Như Lai hiện nay đang thuyết pháp. Lại có thế giới tên là Diêm-phù Quang Minh, ở đó có Phật hiệu là Pháp Tự Tại Sư Tử Du Hý Như Lai. Lại có thế giới tên là An-tu-di, ở đó có Phật hiệu là Đạo Tự Tại Sa La Vương Như Lai. Lại có thế giới tên là Công Đức Lâu Vương, ở đó có Phật hiệu là Sư Tử Hống Vương Như Lai. Lại có thế giới tên là Trân Bảo Trang Nghiêm, ở đó có Phật hiệu là Bát Tý Thắng Lôi Như Lai. Lại có thế giới tên là Chân Châu Quang Minh Biến Chiếu, ở đó có Phật hiệu là Trân Bảo Tạng Công Đức Hống Như Lai. Lại có thế giới tên là Thiên Nguyệt, ở đó có Phật hiệu là Hỏa Tạng Như Lai. Lại có thế giới tên là Chiên-đàn-căn, ở đó có Phật hiệu là Tinh Tú Xưng Như Lai. Lại có thế giới tên là Xưng Hương, ở đó có Phật hiệu là Công Đức Lực Sa La Vương Như Lai. Lại có thế giới tên là Thiện Thích, ở đó có Phật hiệu là Diệu Âm Tự Tại Như Lai. Lại có thế giới tên là Đầu-lan-nhã, ở đó có Phật hiệu là Sa-la Thắng Tỳ-bà Vương Như Lai. Lại có thế giới tên là Nguyệt Tự Tại, ở đó có Phật hiệu là Quang Minh Tự Tại Như Lai. Lại có thế giới tên là Thiện Lôi Âm, ở đó có Phật hiệu là Diệu Âm Tự Tại Như Lai. Lại có thế giới tên là Bảo Hòa Hợp, ở đó có Phật hiệu là Bảo Chưởng Long Vương Như Lai. Lại có thế giới tên là Thùy Bảo Thọ, ở đó có Phật hiệu là Lôi Âm Tự Tại Pháp Nguyệt Quang Minh Như Lai.

“Vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chư Phật như vậy hiện đang thuyết pháp ở phương nam, tất cả đều là do ta khi còn làm

Bồ Tát đã khuyên dạy cho lần đầu tiên phát tâm Bồ-đề. Tòa sư tử của các đức Thế Tôn ấy đang ngồi cũng đều chấn động. Rồi các đức Phật ấy thảy đều ngợi khen xưng tán công đức của ta, lại cũng sai khiến vô lượng vô biên a-tăng-kỳ vị Đại Bồ Tát mang theo hoa quý thanh tịnh  nguyệt  quang minh vô cấu đến thế giới Ta-bà này, tại núi Kỳ-xà-quật, lễ bái cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen xưng tán. Sau đó tất cả đều phân theo thứ tự ngồi sang một bên, lắng nghe thuyết pháp.

“Thiện nam tử! Nay ta lại nhìn thấy về phương tây cách đây bảy vạn bảy ngàn trăm ngàn cõi Phật,(1) có một thế giới tên là Tịch Tĩnh, ở đó có Phật hiệu là Bảo Sơn hiện đang vì Bốn chúng thuyết giảng giáo pháp vi diệu.

(1) Nguyên bản Hán văn chỗ này khắc là百千由旬佛之世界 (bá thiên do-tuần Phật chi thế giới). Hai chữ do-tuần hoàn toàn không hợp lý ở đây nên chúng tôi lược bỏ. Chúng tôi ngờ ở đây là那由他(na-do-tha), nhưng chỉ nêu ra để quý độc giả xem xét chứ không dám tùy tiện thêm vào.

“Lại có đức Phật Thắng Quang Vô Ưu, Phật Âm Trí Tạng, Phật Xưng Quảng, Phật Biến Tạng, Phật Phạm Hoa, Phật Thế Tấn, Phật Pháp Đăng Dũng, Phật Thắng Âm Sơn, Phật Xưng Âm Vương, Phật Phạm Âm Vương… Vô lượng vô biên a-tăng-kỳ các đức Phật Thế Tôn như vậy ở phương tây, cũng đều là do ta khi còn là Bồ Tát đã khuyên dạy cho lần đầu tiên phát tâm Bồ-đề. Tòa sư tử của các đức Thế Tôn ấy đang ngồi cũng đều chấn động. Rồi các đức Phật ấy thảy đều ngợi khen xưng tán công đức của ta, lại cũng sai khiến vô lượng vô biên a-tăng-kỳ vị Đại Bồ Tát mang theo hoa quý thanh tịnh nguyệt quang minh vô cấu đến thế giới Ta-bà này, tại núi Kỳ-xà-quật, gặp Phật rồi lễ bái cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen xưng tán. Sau đó tất cả đều phân theo thứ tự ngồi sang một bên, lắng nghe thuyết pháp.

“Về phương bắc cách đây trăm ngàn na-do-tha cõi Phật, có thế giới kia tên là Vô Cấu, ở đó có Phật hiệu là Ly Nhiệt Não Tăng Tỳ-sa-môn Sa-la vương Như Lai. Có hai vị Bồ Tát, một tên là Bảo Sơn, một tên là Quang Minh Quán.

“Lại có đức Phật Hoại Chư Ma, Phật Sa-la Vương, Phật Đại Lực Quang Minh, Phật Liên Hoa Tăng, Phật Chiên- đàn, Phật Di-lâu Vương, Phật Kiên Trầm Thủy, Phật Hỏa Trí Đại Lực… Vô lượng các đức Phật Như Lai như vậy ở phương bắc.

“Cho đến về các phương tây bắc, tây nam, đông bắc, đông nam, phương trên và phương dưới cũng đều như vậy.”

Lúc bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni vì muốn dung chứa được hết thảy đại chúng đông đảo như vậy nên dùng sức đại thần thông làm cho thân thể của tất cả những người đến dự pháp hội đều nhỏ lại chỉ bằng như hạt đình lịch.(1) Dù vậy, khắp thế giới Ta-bà khi ấy từ mặt đất lên đến hư không cũng vẫn đông đảo chật kín, không còn lấy một khoảng trống dù chỉ bằng sợi lông.

Lúc ấy, tất cả chúng sinh đều không thể nhìn thấy được nhau, cũng không thể nhìn thấy các núi lớn, núi nhỏ, núi chúa Tu-di, cùng hai núi Thiết vi lớn, nhỏ và khoảng tối tăm u ám ở giữa; phía trên không thấy được cung điện của chư thiên, phía dưới không thấy được chỗ thấp nhất của thế giới. Chỉ riêng đức Phật Thế Tôn là vẫn nhìn thấy được tất cả.

(1) Hạt đình lịch: Một loại hạt rất nhỏ màu vàng đen, dùng làm vị thuốc. Có người nói là hạt của cây rau đay. Ở đây chỉ dùng với ý là rất nhỏ.

Bấy giờ, đức Phật Thích-ca Mâu-ni lại nhập Tam-muội Biến hư không đoạn trừ chư pháp định ý, khiến cho vô số hoa quý thanh tịnh nguyệt quang đều chui cả vào các lỗ chân lông trên thân Phật. Hết thảy đại chúng đều tự mình chứng kiến việc ấy.

Khi ấy, hết thảy chúng sinh đều không nghĩ đó là hình tướng sắc thân Phật, chỉ nhìn thấy trong những lỗ chân lông ấy có cảnh vườn cây xinh đẹp. Trong cảnh vườn cây ấy có nhiều cây báu. Những cây ấy đều có đủ mọi thứ cành lá, hoa quả sum suê. Trên cây còn có đủ các loại áo quý, cờ phướn, lọng báu cõi trời, chân châu, anh lạc trang nghiêm tốt đẹp, giống như ở thế giới An Lạc phương tây.(1) Đại chúng nơi đây thảy đều nhìn thấy như vậy, liền tự nghĩ rằng: “Nay chúng ta sẽ đến dạo chơi trong cảnh vườn kia.”

Lúc bấy giờ, chỉ trừ những chúng sinh trong Ba đường ác(2) và ở cõi trời Vô sắc,(3) còn ngoài ra hết thảy đại chúng đều theo các lỗ chân lông mà đi vào bên trong thân Như Lai, đến ngồi trong những cảnh vườn cây xinh đẹp kia.

Khi ấy, đức Phật Thích-ca xả bỏ phép thần túc, tức thời hết thảy đại chúng đều nhìn thấy nhau như cũ. Họ thắc mắc hỏi nhau: “Không biết hiện nay đức Như Lai đang ở đâu?”

(1) Thế giới An Lạc phương tây: tức thế giới Cực Lạc của đức Phật A-di-đà, cũng được gọi là Tây phương Tịnh độ. Xem kinh A-di-đà hoặc kinh Quán Vô Lượng Thọ.

(2) Ba đường ác: Xem chú giải ở trang 94.

(3) Cõi trời Vô sắc: Xem chú giải ở trang 345.

Lúc đó, Bồ Tát Di-lặc liền bảo đại chúng rằng: “Các ông nên biết, hiện nay tất cả chúng ta đều đang ở bên trong thân của Như Lai.”

Khi ấy, đại chúng liền nhìn thấy khắp cả bên trong và bên ngoài sắc thân của Như Lai, liền tự biết được rằng vô lượng đại chúng tập hợp nơi đây đều đang ở bên trong sắc thân của Như Lai. Họ lại hỏi nhau rằng: “Chúng ta đã theo đường nào mà vào được bên trong thân Như Lai? Ai đã dẫn dắt chúng ta vào trong này?”

Bồ Tát Di-lặc lại nói với đại chúng: “Các ông hãy lắng nghe! Hiện nay đức Như Lai hiện sức biến hóa đại thần thông, lại vì muốn làm lợi ích cho tất cả đại chúng nên sắp sửa thuyết giảng pháp mầu. Nay các ông phải hết lòng chú ý lắng nghe.”

Bấy giờ, tất cả đại chúng nghe nói như vậy liền quỳ xuống, chắp tay cung kính lắng nghe lời dạy.

Khi ấy, đức Thế Tôn liền dùng pháp môn Nhất thiết hạnh để giảng thuyết pháp mầu.

Đức Phật bảo đại chúng: “Thế nào gọi là pháp môn Nhất thiết hạnh? Đó là: ra khỏi bùn lầy sinh tử, thể nhập Tám thánh đạo, thành tựu đầy đủ, đạt được trí hiểu biết tất cả.

“Thiện nam tử! Có mười pháp chuyên tâm phát khởi Bồ- đề có thể vào được pháp môn này. Những gì là mười?

“Pháp thứ nhất là vì muốn cho tất cả chúng sinh đều được giải thoát nên tùy hỷ hồi hướng.

“Pháp thứ hai là vì phát khởi lòng đại bi nên thâu nhiếp hết thảy chúng sinh.

“Pháp thứ ba là vì muốn cứu vớt những chúng sinh chưa được cứu vớt nên tinh cần tu tập, sửa sang con thuyền pháp Vô thượng.

“Pháp thứ tư là vì muốn thấu hiểu những điều chưa hiểu nên tu tập trang nghiêm, quán xét xa lìa sự điên đảo hư vọng.

“Pháp thứ năm là vì muốn giảng rộng chánh pháp như tiếng sư tử rống nên tu tập trang nghiêm không còn chỗ sợ sệt, quán xét tánh thật của các pháp không có bản ngã.

“Pháp thứ sáu là vì muốn tùy thuận tất cả các thế giới mà mình đến nên trong tâm không có sự phân biệt, khéo học biết hết thảy các pháp đều là không, thân người là vô thường không bền chắc, như Phật có dạy Mười thí dụ.(1)

(1) Mười thí dụ: Trong kinh Phật thường dùng mười thí dụ để chỉ rõ ý nghĩa “tất cả các pháp đều là không” và “thân người là vô thường, không bền chắc”.

Mười thí dụ để chỉ rõ ý nghĩa “tất cả các pháp đều là không” gồm có:

  1. Ví như huyễn hóa (Huyễn dụ – Phạn ngữ: māyā-upama): như nhà ảo thuật hóa hiện ra các thứ voi, ngựa cho đến đủ mọi hình tướng, cần sáng suốt biết rõ đó chỉ là hư ngụy, không thật, mọi hình sắc, âm thanh thấy nghe được như vậy đều xem như không có, điều này ví như khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần sẽ không để cho bị lôi cuốn, rối loạn. Hết thảy các pháp cũng đều không thật có như vậy.
  2. Ví như hơi nắng nóng (Diệm dụ – Phạn ngữ: marīci-upama): như khi trời nắng nóng mùa hè, hơi nóng lung linh, gió thổi bụi lay động, khiến người nhìn thấy như đủ các hình tướng, hoặc như thấy từ xa có nước, điều này ví như khi đắm chấp nơi các phiền não, bị phiền não trói buộc, chúng sinh mới lưu chuyển mãi mãi trong vòng sinh tử. Hết thảy các pháp cũng đều không thật có như vậy.
  3. Ví như trăng trong nước (Thuỷ trung nguyệt dụ – Phạn ngữ: udaka-candra- upama): như mặt trăng ở giữa không trung mà hình chiếu hiện ra dưới nước, tướng thật của mặt trăng ví như tánh thật của các pháp, thật có giữa không trung, còn kẻ phàm phu đối với các tướng ngã ngã sở lại vọng chấp cho là thật có, khác nào như nhìn thấy mặt trăng trong nước mà cho đó là thật có; hết thảy các pháp cũng đều không thật có như vậy.
  4. Ví như hư không (Hư không dụ – Phạn ngữ: ākāśa-upama): như nói “hư không” thì đó chỉ là tên gọi, không có thật thể, lại như nhìn lên cao xa thấy bầu trời xanh, giống như có màu sắc thật, nhưng nếu bay mãi lên cao cũng chẳng thể trông thấy được gì. Hết thảy các pháp cũng đều không thật có như vậy.
  5. Ví như tiếng vang (Hưởng dụ – Phạn ngữ: pratiśrutkā-upama): như trong chốn hang sâu núi thẳm hoặc giữa hai vách núi, khi phát ra tiếng kêu hoặc âm thanh lớn liền nghe có tiếng dội lại hòa theo, gọi là tiếng vang, âm thanh đó tuy là thật sự nghe thấy, nhưng lại không hề thật có. Hết thảy các pháp thật tánh đều là không, chỉ do những tướng hư dối mà thành như thật có.
  6. Ví như thành càn-thát-bà (Càn-thát-bà thành dụ – Phạn ngữ: gandharva- nagara-upama): loài càn-thát-bà có thần thông biến hóa, thị hiện ra được những thành quách, nhà cửa, khi mặt trời vừa mới mọc có thể nhìn thấy những thứ ấy như thật, có người đông đúc ra vào, đến khi mặt trời lên cao dần thì tự nhiên biến mất, không còn thấy được nữa; những thành quách nhà cửa như vậy tuy là có nhìn thấy rõ ràng nhưng không hề thật có, cũng như những kẻ không có trí huệ nhìn thấy có bản ngã và các pháp, khởi lên các tâm dâm dục, sân hận, rồi quay cuồng điên đảo, mong cầu khoái lạc, nếu người có trí huệ rõ biết lý vô ngã, rõ biết các pháp là không thật, thì sự điên đảo kia tự nhiên không còn nữa.
  7. Ví như trong giấc mộng (Mộng dụ – Phạn ngữ: svapna-upama): Trong giấc mộng vốn không có sự thật, người nằm mộng lại vọng chấp cho là thật, đến khi tỉnh giấc mới biết, liền tự mình cười lấy mình. Hết thảy các pháp cũng đều không thật có như vậy.
  8. Ví như cái bóng (Ảnh dụ – Phạn ngữ: pratibhāsa-upama): do có ánh sáng chiếu nơi vật hiện thành cái bóng của vật, tuy thấy được mà không thể nắm bắt, giữ lấy. Hết thảy các pháp cũng đều không thật có như vậy.
  9. Ví như hình trong gương (Kính trung tượng dụ – Phạn ngữ: pratibimba-upama): như soi gương nhìn thấy mặt mình, hình trong gương đó vốn không phải do cái gương tạo ra, không phải do mặt mình tạo ra, không phải do người cầm gương tạo ra, không phải tự nhiên mà có, cũng không phải do nhân duyên mà có. Cũng vậy, hết thảy các pháp đều là không, chẳng có sinh ra, chẳng có diệt mất, chỉ là dối gạt mắt nhìn của những kẻ phàm phu mà

Ví như biến hóa (Hoá dụ – Phạn ngữ: nirmita-upama): như những người tu tập chứng đắc các phép thần thông có thể biến hoá ra sự vật, hoặc chư thiên, loài rồng, quỷ thần… cũng có khả năng biến hoá sự vật, nhưng dù những chúng sinh ấy có khả năng biến hoá ra các hình tướng nam nữ, những hình nhân biến hóa ấy thảy đều không thật có các pháp sinh, lão, bệnh, tử, khổ, .. Hết thảy các pháp cũng đều là như vậy, không có sinh ra, không có diệt mất đi, khác nào do biến hoá mà thành, cũng không phải thật có, cho nên nói rằng các pháp đều là không.

Mười thí dụ để chỉ rõ ý nghĩa “thân người là vô thường, không bền chắc” được dẫn trong kinh Duy-ma-cật, gồm có:

“Pháp thứ bảy là vì muốn được thế giới có hào quang trang nghiêm nên tu tập giữ theo giới luật, khiến thân tâm được thanh tịnh.

“Pháp thứ tám là vì muốn trang nghiêm thành tựu Mười sức(1) của Như Lai nên tu tập đầy đủ hết thảy các pháp ba- la-mật.

“Pháp thứ chín là vì muốn trang nghiêm thành tựu Bốn pháp không sợ sệt(2) nên theo đúng lời thuyết dạy mà thực hành.

“Pháp thứ mười là vì muốn trang nghiêm Mười tám pháp chẳng chung cùng(3) nên tùy chỗ được nghe thuyết pháp thảy đều không thấy dư thừa, không sinh lòng buông thả, biếng nhác.

“Như vậy gọi là mười pháp chuyên tâm phát khởi đạo Bồ- đề Vô thượng, có thể vào được pháp môn Nhất thiết hạnh này, liền đạt được địa vị không còn thối chuyển đối với đạo Bồ-đề Vô thượng, đạt được hạnh Vô tướng, đạt được hạnh Trí đạo, thấy được tất cả các pháp đều là vô ngã, trong tâm không còn suy nghĩ, không sinh không diệt. Như vậy gọi là địa vị không còn thối chuyển của hàng Bồ Tát. Do đây mà không có thối chuyển, cũng chẳng phải không thối chuyển; không phải dứt mất, cũng chẳng phải thường còn; không phải an định, cũng chẳng phải rối loạn.”

  1. Thân này như bọt đọng, không thể sờ nắm.
  2. Thân này như bọt nổi, không tồn tại lâu dài.
  3. Thân này như bọt đọng, không thể sờ nắm.
  4. Thân này như bọt nổi, không tồn tại lâu dài.
  5. Thân này như nháng lửa, do sự khát khao ái dục mà sinh
  6. Thân này như cây chuối, bên trong chẳng bền chắc gì.
  7. Thân này như món đồ ảo thuật, do sự xáo trộn mà sinh
  8. Thân này như chiêm bao, hư vọng chẳng thật.
  9. Thân này như cái bóng, theo nghiệp duyên mà hiện
  10. Thân này như tiếng vang, phụ thuộc các nhân duyên.
  11. Thân này như mây nổi, trong phút chốc đã biến mất.
  12. Thân này như tia chớp, chẳng ở yên một phút nào.

(1) Mười sức của Như Lai: tức Thập lực, xem chú giải ở trang 104.

(2) Bốn pháp không sợ sệt: tức Tứ vô sở úy, xem chú giải ở trang 93.

(3) Mười tám pháp chẳng chung cùng: tức Thập bát bất cộng pháp, xem chú giải ở trang 796.

Khi Phật thuyết giảng pháp này, bên trong sắc thân Như Lai có số Đại Bồ Tát nhiều như số cát của tám mươi ức con sông Hằng đều được địa vị không còn thối chuyển đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, lại có vô số Đại Bồ Tát không thể tính đếm hết, đều được các tam-muội, pháp nhẫn rất thâm sâu, hết thảy đều theo các lỗ chân lông trên thân Như Lai mà đi ra, trong lòng hết sức kinh ngạc, khen là việc chưa từng có, liền đối trước Phật cúi đầu sát đất mà lễ kính. Sau khi lễ xong đứng dậy, hốt nhiên mỗi vị đều trở về cõi Phật của mình, nhưng vẫn nghe được tiếng thuyết pháp của đức Phật Thích-ca Mâu-ni vượt qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ cõi Phật trong mười phương, không có chướng ngại.

Các vị Bồ Tát ấy tuy trở về nơi thế giới của mình nhưng vẫn tiếp tục được nghe tiếng của Như Lai thuyết pháp, vẫn đầy đủ ý nghĩa từng câu từng chữ không hề thiếu sót, cũng không khác gì như đang được ở gần ngay trước đức Phật. Thân Như Lai lại cũng biến hiện như vậy, đầy khắp vô số thế giới trong mười phương. Có vô lượng vô biên a-tăng-kỳ Bồ Tát, Thanh văn ở các thế giới ấy vẫn nhìn thấy một lỗ chân lông của Như Lai mà ra vào không chi trở ngại. Rồi lỗ chân lông thứ hai, cho đến hết thảy vô số lỗ chân lông của Như Lai cũng đều có thể ra vào không trở ngại.

Ở các thế giới khác trong khắp mười phương cũng đều như vậy.

Bấy giờ, đại chúng từ trong các lỗ chân lông của Phật Thích-ca Như Lai đi ra, cúi đầu sát đất lễ Phật, đi quanh ba vòng cung kính rồi đứng trước Phật, dùng đủ mọi lời hay ý đẹp để ngợi ca xưng tán Phật.

Khi ấy, chư thiên ở hai cõi Dục giới Sắc giới liền mưa xuống đủ mọi loại hoa, hương phết, hương bột, cờ phướn, chuỗi ngọc, cùng trỗi lên các loại âm nhạc vi diệu để cúng dường đức Như Lai.

Bấy giờ, trong hội có một vị Bồ Tát tên là Vô Uý Đẳng Địa, quỳ xuống chắp tay bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Kinh điển lớn lao như thế này nên gọi tên là gì? Nên cung kính gìn giữ như thế nào?”

Phật bảo Bồ Tát Vô Uý Đẳng Địa: “Kinh này gọi là Pháp môn Đà-la-ni Giải liễu nhất thiết, cũng gọi là Vô Lượng Phật, cũng gọi là Đại chúng, cũng gọi là Thọ Bồ Tát ký, cũng gọi là Tứ vô sở uý xuất hiện ư thế, cũng gọi là Nhất thiết chư tam-muội môn, cũng gọi là Thị hiện chư Phật thế giới, cũng gọi là Do như đại hải, cũng gọi là Vô lượng, cũng gọi là Đại bi liên hoa.”(1)

(1) Khi chuyển dịch kinh này sang Hán văn, ngài Đàm-vô-sấm đã dùng tên kinh Đại bi liên hoa để gọi tắt lại thành kinh Bi hoa.

Đại Bồ Tát Vô Uý Đẳng Địa lại bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Nếu có kẻ nam, người nữ phát lòng lành, thọ trì kinh này, tụng đọc thông suốt, vì người khác giảng nói, dù chỉ là một bài kệ, sẽ được phước đức như thế nào?”

Phật bảo Bồ Tát Vô Uý Đẳng Địa: “Ta trước đã có giảng nói chỗ được phước đức của người trì kinh này, nay sẽ vì ông mà nói lại sơ lược mọi điều.

“Nếu có những kẻ nam, người nữ phát lòng lành thọ trì kinh này, tụng đọc thông suốt, vì người khác giảng nói, dù chỉ là một bài kệ, hoặc trong khoảng năm mươi năm cuối của thời mạt thế mà có thể sao chép một bài kệ trong kinh này, chỗ công đức đạt được còn hơn cả các vị Bồ Tát thực hành sáu pháp ba-la-mật trong mười đại kiếp.

“Vì sao vậy? Các hàng Thiên ma, Phạm, sa-môn, bà-la- môn, dạ-xoala-sát,  loài  rồng,  càn-thát-bàa-tu-laca-lâu- la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, câu-biện-đồ,  ngạ  quỷ,  tỳ- xá-già, người và phi nhân, nếu có tâm sân hận, khi nghe kinh này liền được thanh tịnh, hòa dịu, hoan hỷ, lại cũng được lìa khỏi các bệnh khổ, sự nóng giận, giặc thù, cho đến các sự đấu tranh giành giật, diệt trừ hết thảy mưa độc gió dữ.

“Kinh này cũng giúp cho người bệnh được khỏi, người đói khát được no đủ, hưởng mọi khoái lạc, hòa hợp thuận thảo với nhau. Đối với người nhiều sân hận có thể làm cho trở nên nhẫn nhục; đối với người sợ sệt có thể làm cho không còn lo sợ, hưởng mọi niềm vui. Đối với người nhiều phiền não có thể kiến cho lìa xa phiền não.

“Kinh này lại có thể khiến cho các căn lành thảy đều tăng trưởng; có thể cứu vớt chúng sinh trong ba đường ác; có thể chỉ ra con đường Ba thừa thoát ra Ba cõi; có thể đạt đến pháp nhẫn rất thâm sâu, cùng các môn đà-la-ni, tam-muội; có thể giúp chúng sinh làm nên sự lợi ích lớn lao, có thể ngồi lên tòa kim cang nơi đạo tràng; có thể trừ phá bốn ma; có thể chỉ bày hết thảy các pháp hỗ trợ Bồ-đề; có thể chuyển bánh xe chánh pháp; đối với những ai không có các tài bảo của bậc thánh có thể làm cho được đầy đủ tất cả; có thể khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh được trụ yên trong chỗ không còn sợ sệt.

“Do những nhân duyên ấy, nếu có thể gìn giữ kinh này, tụng đọc thông suốt, vì người khác giảng nói, dù chỉ là một bài kệ, hoặc nếu trong khoảng năm mươi năm cuối của thời mạt thế mà có thể sao chép chỉ một bài kệ trong kinh này, đều được đầy đủ vô lượng vô biên phước đức như vậy. Vì thế nên hôm nay ta mới thuyết dạy kinh này.

“Kinh điển lớn lao như thế này, nay sẽ giao phó lại cho ai? Ai có thể trong khoảng năm mươi năm cuối của thời mạt thế sẽ bảo vệ, gìn giữ pháp môn này? Ai có thể vì các vị Bồ Tát ở địa vị bất thối chuyển ở khắp mọi nơi mà tuyên thuyết kinh này, khiến cho đều được nghe thấy? Ai có thể vì những chúng sinh có nhiều tham dục, ác độc, tà kiến, không tin nhân quả mà giảng giải cho họ nghe giáo pháp này?”

Bấy giờ, tất cả đại chúng đều hiểu được ý Phật. Có một vị Đại tiên Dạ-xoa tên là Vô oán Phí Túc đang ngồi trong chúng hội. Khi ấy, Đại Bồ Tát Di-lặc liền từ chỗ ngồi đứng dậy, cùng với vị Đại tiên Dạ-xoa này tiến đến chỗ Phật.

Lúc đó, Như Lai bảo vị Đại tiên Dạ-xoa rằng: “Hôm nay ông nên thọ nhận kinh này, rồi đến trong khoảng năm mươi năm cuối cùng của thời mạt pháp sẽ vì các vị Bồ Tát ở địa vị không còn thối chuyển, cho đến vì những kẻ không tin nhân quả mà giảng giải giáo pháp này.”

Khi ấy, vị Đại tiên Dạ-xoa liền bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Trong suốt tám mươi bốn đại kiếp quá khứ, con đã vì bản nguyện mà làm vị Đại tiên Dạ-xoa, tu hành đạo A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Khi ấy con đã giáo hóa vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh, khiến cho trụ yên trong Bốn tâm vô lượng, lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh đạt được địa vị không còn thối chuyển đối với quả vị A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Bạch Thế Tôn! Nay con sẽ vì hết thảy chúng sinh trong đời vị lai mà làm việc ủng hộ, trong khoảng năm mươi năm cuối cùng của thời mạt pháp sẽ thọ trì kinh này, cho đến nếu chỉ được nghe một bài kệ bốn câu trong kinh này từ nơi người khác, con cũng sẽ tụng đọc cho thật thông suốt, truyền bá rộng rãi cho mọi người, không để dứt mất.”

Khi Phật thuyết giảng xong kinh này, Bồ Tát Tịch Ý cùng với chư thiên, đại chúng, càn-thát-bà… người và phi nhân, thảy đều hết sức hoan hỷ, cúi đầu sát đất lễ Phật rồi rời khỏi chỗ ngồi mà lui về.