Hán dịch: Sa Môn Bát Lặc Mật Đế
Soạn dịch: Sa Môn Thích Hồng Nhơn
Lời Tựa
Pháp môn Tịnh Độ rất nhiều Pháp tu, nhưng chỉ có Pháp niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí là bước công phu rất thân thiết và hữu hiệu cấp kỳ, như thuốc tể mầu nhiệm để trị bệnh trầm kha, như nhà tỉ phú có nhiều của đem chẩn bần, như thuyền to qua bể cả, như hạt châu như ý xuất sanh các vật báu.
Từ Phụ A Di Đà dũi cánh tay vàng tiếp dẫn bất kể ngày đêm, Phóng hào quang ngọc chiếu sáng mười phương dìu dắt chúng sanh nhiều kiếp nhiều đời, hằng nhớ như con thơ bị thất lạc. Trên hội Lăng Nghiêm, nhiều bậc Thánh đã điều trần bản tích, kể Pháp chứng đắc đã lâu xa, Pháp vương tử Văn Thù được đề cử tuyển chọn viên thông Đức Quan Thế Âm và Đức Đại Thế Chí thứ nhất.
Quán kinh nói: “dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp tất cả chúng sanh làm cho họ xa lìa ba đường dữ, được năng lực vô thượng nên có tên là Đại Thế Chí.” Đức Quan Thế Âm và Đại Thế Chí là bậc Thượng thủ hầu cạnh Phật A Di Đà. Pháp của Ngài dạy đều hợp với chúng sanh thời mạt pháp, đều là pháp dễ tu. Các Ngài thị hiện ở cõi này với nhiệm vụ là tiếp dẫn người Niệm Phật về cõi Tịnh Độ. Trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “Này A Nan! cái khiến cho các ông nhiều kiếp sanh tử luân hồi là do sáu căn của ông; Cái làm cho các ông chứng được đạo quả Bồ Đề cũng do sáu căn các ông mà thôi”. Lại nói: “Thế nên, khi thấy nghe hay biết mà khởi vọng niệm Phân biệt, đó là gốc vô minh. Còn khi thấy nghe hay biết mà không khởi vọng niệm Phân biệt đó là gốc Niết Bàn. Ở trong chơn tâm Thanh Tịnh không có chứa vật gì cả.” Dựa theo ý chỉ thời Lăng Nghiêm Bồ Tát Đại Thế Chí đã đề xướng Pháp môn niệm Phật chuyên dùng nhất niệm hiện tiền chí thành làm chánh niệm, do chánh niệm làm chủ nên có thể nhiếp hết sáu căn một cách dễ dàng, vì khi niệm Phật là chuyên dùng một niệm hiện tiền chí thành mỗi niệm trụ ở bản giác chính mình, trong tâm nhớ Phật niệm Phật làm cho sáu căn không theo sáu trần là ngược với trần lao hợp với tánh giác, bỏ vọng về chơn từ ngọn hướng về cội gốc, chuyển nhiểm thành tịnh.
Đây là một phương pháp vô cùng độc đáo, chỉ dùng có một chánh niệm mà dẹp hết vọng tưởng sáu căn. Nếu chúng ra muốn vào quả giác viên mãn của Phật A Di Đà, an trụ trong Phật tướng chánh định của Như Lai, chỉ cần mỗi niệm tâm giữ chí thành, trì danh hiệu Phật, mỗi tâm giác chiếu chớ cho đổi dời, nếu biết đổi dời liền nhiếp lại làm cho trở về, tập lâu thuần thục, không cần gắng sức mà được tam muội. Phương pháp dùng chánh niệm thu nhiếp sáu căn, được tam muội là một phương pháp vô cùng thù thắng. Xin đọc vào văn kinh tự nhiên nhận rõ.
Niệm Phật Viên Thông
Thật cao cả thay! Pháp môn niệm Phật là pháp môn thâu gồm hết Đại Thừa và tiểu thừa, nhiếp hết các căn lợi và độn, viên dung cả sự và lý, vô ngại cả tánh và tướng, chính Phật là tâm, không có nhiếp tâm nào không phải là tâm Phật. Tâm một khi đã nhớ đến thì mỗi Phật đều hiển bày, một lần xưng danh hiệu Phật thì mỗi tâm đều hiển phát. Không có tâm ngoài Phật là tâm sở ức (bị nhớ), cũng không có Phật ngoài tâm làm Phật sở xưng (bị xưng), chúng sanh niệm Phật, Phật ở trong tâm chúng sanh; Phật niệm chúng sanh, chúng sanh ở trong tâm Phật, tâm ấy làm Phật, tâm không niệm mà Phật không làm, tức Phật hiển tâm, Phật không xứng mà tâm chẳng hiển. Nên biết, Pháp môn niệm Phật là Diệu Pháp minh tâm kiến tánh.
Sỡ dĩ mười hai Đức Như Lai hiệu là Tam Muội, Bồ Tát Thế Chí nên làm Viên Thông. Tam Muội thì tổng nhiếp các Thiền, viên Thông, thì đầy đủ vạn hạnh, do nhất tâm đạt được đâu chẳng đúng ư! Người nghe nói danh hiệu Phật, uy dũng của ánh sáng chứng nhập vô cùng, nhớ tuởng cảnh Phật, mây Đức giải thoát bao trùm nhiều phía, người được ích lợi thù thắng này cần phải tin làm, đâu có thể nào tự hại, tự bỏ không nguyện không tu ư! Lăng Nghiêm là chỉ tất cả sự vật đều rốt ráo bền chắc, là tên chung của một Bộ Kinh. Niệm Phật Viên Thông là chỉ môn niệm Phật không chỗ nào mà chẳng thông. Đại Thế Chí là người mở ra giáo Pháp. Niệm Phật là pháp môn tu hành để đắc đạo. Văn tuy có nhiều hạnh nghĩa bao hàm hết kinh điển Tịnh Độ, có giáo có cơ, có pháp có dụ, sự cảm ứng của Phật và chúng sanh, khắp chứa nhân quả của mình và người thông suốt, lấy cảnh tâm làm trăng đèn, lấy thánh phàm làm thuyền chèo nên gọi là Kinh Lăng Nghiêm Niệm Phật Viên Thông.
Giải đoạn kinh này chia làm năm điểm Phân biệt:
I. Nói về nguyên do phát khởi giáo lý.
II. Giáo Nhiếp của Tạng Thừa kinh này.
III. Chỗ Tôn thú chỉ quy.
IV. Giải thích tên đề.
V. Giải rõ văn nghĩa.
I. Nói về nguyên do phát khởi giáo lý.
Trong Trí Độ Luận nói: “Như núi Tu Di phải có nhân duyên lớn, không phải nhân duyên nhỏ có thể làm cho nó chấn động.” Giáo Pháp niệm Phật được hưng khởi là một nhân duyên lớn, có đủ mười nhân duyên: 1- Chỉ rõ đường lối tu hành thẳng tắt. 2- Chỉ thẳng mọi người niệm ông Phật tự Tâm. 3- Muốn làm cho mọi người ngộ nhập vào tâm tánh Phật. 4- Hiển bày Phật, tâm chúng sanh ba không sai khác. 5- Độ thoát căn cơ phàm phu, vượt khỏi ba cõi. 6- Tiếp dẫn quyền tiểu tròn đầy đủ quả Phật. 7- Độ thoát ba bậc không còn nghi hối. 8- Lợi ích đời này và đời sau trùm khắp không cùng. 9- Mau nhiếp sáu căn chứng cảnh viên thông. 10- Mau dứt nghiệp chướng phiền não chắc sanh về cõi tịnh.
– Vì sao gọi chỉ rõ đường lối tu hành thẳng tắt? Phàm người tu hành mục đích là thoát khỏi sanh tử. Người tu Thánh đạo muốn ra khỏi nhà cửa tam giới một đời chứng quả vô thượng Bồ Đề phải trải qua 52 quả vị, số kiếp tu phải trải qua ba A Tăng Kỳ kiếp, như con mọt muốn ra khỏi ống tre phải đụt qua 52 mắt tre mới ra ngoài; Trái lại, người tu Tịnh độ là người thực hành pháp đặc biệt, chỉ trong một đời này ra khoi nhà lửa tam giới, lần chứng quả vô thượng Bồ Đề chỉ trong một kiếp, như con mọt nhờ phương tiện thẳng tắt đụt ngang vỏ tre là có thể ra ngoài, nên phương pháp này được gọi là thẳng tắt. Kinh Lăng Nghiêm nói: “Hàng sơ tâm vào Tam muội có chậm có mau không đồng”. Nên biết các pháp môn khác học đạo còn bị nhiều hiểm nạn mà cổ đức thường ví như con kiến bò lên núi cao, còn người niệm Phật tu hành, người xưa gọi là đường tắt dễ làm như người đi thuyền buồm căng gặp nước thuận. Tổ Thiện Đạo dạy: “Chỉ có đường tắt tu hành, cần niệm A Di Đà Phật.” Huống phương pháp này là pháp trì danh được gọi là thẳng tắt nhất trong các pháp thẳng tắt. Nếu muốn một đời chứng quả cần phải lưu tâm Pháp này. Đây là một nhân duyên lớn!
– Vì sao gọi chỉ thẳng mọi người Niệm ông Phật tự tâm? Trong quán kinh dạy: Tâm này làm Phật, Tâm này là Phật. Biểu chánh kiến tri của Chư Phật đều từ tâm tưởng Phật mà sanh, cho nên dạy người niệm Phật tức là niệm tự tâm Phật.” Thật vậy, chúng sanh từ vô thỉ đến nay đều sản có chơn như Phật tánh nhưng bị vô minh che ngăn, phiền não lấp kín, nếu có đủ nhơn duyên gội rửa thì viên ngọc nhuộm bùn nhơ kia trở thành sáng suốt như xưa. Niệm Phật là một phương pháp gội rửa tự tâm, bụi cấu nhơ bẩn nhờ dùng pháp niệm Phật mà lau sạch. Lại nữa chúng sanh vốn là Phật, nếu có phương pháp khai hiển thì Phật tánh hiện ra, như người đi đường cầm đuốc đã tắt, nhờ người dùng đuốc cháy mồi vào thì đuốc vẫn sáng như xưa. Cũng vậy, chúng sanh niệm Phật là niệm ông Phật tự tâm như người cầm đuốc đã tắt nhờ ánh lửa vô lượng quang mồi lại mà tỏa ra ánh sáng như cũ. Chỉ niệm ông Phật tự tâm là một nhơn duyên lớn!
– Vì sao làm cho mọi người ngộ nhập vào tâm tánh Phật? Kinh Lăng Nghiêm nói: “ta dùng chẳng diệt chẳng sanh hợp với Như Lai Tạng mà Như Lai Tạng chỉ là Diệu Giác Minh viên chiếu khắp pháp giới.” Luận về sai biệt nói: “Tâm tánh này sáng rỡ trong sạch, đồng thể với Pháp giới, Đức Như Lai y theo tâm này mà nói Pháp không thể nghĩ bàn”. Từ đó cho chúng ta biết Phật dùng Tịnh pháp tánh Như Lai Tạng làm tâm, làm cho mọi người ngộ vào chỗ ấy. Luận Khởi Tín nói: “Tự thể tướng của chơn như thì chúng sanh và Chư Phật không có thêm và bớt.” Trong Kinh Lăng Nghiêm Ngài Phú Lâu Na nói: “Ta và Như Lai Tịnh tâm chơn diệu bửu giác viên Minh viên Mãn không hai.” và Quán Kinh nói: “Các ông khi tâm tưởng Phật”, tâm ấy có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp. Vì thế, khi tâm chúng sanh niệm Phật liền có thể ngộ nhập và tâm tánh của Phật. Qua những dẫn chứng kinh điển kể trên, cho thấy người niệm Phật là người thẳng vào tri kiến Phật. Đây là một nhân duyên lớn.
– Vì sao niệm Phật làm hiển bày Phật, tâm, chúng sanh không sai khác? Chúng sanh giới không khác Pháp thân, pháp thân chính là chúng sanh giới. Quán kinh nói: “Các Đức Như Lai là pháp giới thân vào tất cả tâm tưởng của chúng sanh. Nếu chúng sanh tâm tưởng Phật hiện tiền chắc được thấy Phật.” Như thế thì pháp môn niệm Phật này có thể hiển bày tâm, Phật và chúng sanh, đồng một thể tánh không hề sai khác.
– Vì sao có thể độ căn cơ phàm phu thoát ra ba cõi? Hàng phàm phu và ngoại đạo do Hoặc kiến tư dấy khởi nhận lấy nghiệp báo luân chuyển trong tam giới không bao giờ ra khỏ. Nếu y các pháp khác mà tu phải đến khi nào kiến tư hoặc sạch hết mới ra khỏi tam giới, còn sót chút hoặc chừng bằng mải tơ cũng theo nghiệp đi trong luân hồi. Cách này gọi là tìm cách ra theo đường dọc, như con mọt muốn ra khỏi ống tre theo đường dọc phải đục thẳng mắt này đến mắt khác đến khi hết 52 mắt mới được ra ngoài. Chỉ có Pháp môn niệm Phật mang hoặc nghiệp mà vãng sanh gọi là theo đường ngang mà ra, như con mọt đục ngang thân tre chỉ qua khỏi vỏ là được ra ngoài tam giới. Dũng giang Pháp sư nói: “Người theo đường dọc để ra phải theo từng bậc ví như học sinh bình thường muốn đổ cao khóa phải học và thi từng khoa để tiến lên, phải trải qua nhiều bậc mới đạt thành danh phận. Người theo đường ngang để ra, người tu Pháp niệm Phật, như các sĩ tử tập ấm do tha lực của Tổ phụ, và sủng ái của quốc vương tuy không khổ sở thi mà công danh cũng hiển hách như các học sinh khác. Vì vậy, con đường để phàm phu thoát ra ba cõi này chỉ có Pháp môn niệm Phật là thẳng tắt nhất. Vì nhơn duyên lớn ấy nên Phật không ai hỏi mà tự nói ra pháp môn này.
– Vì sao phải tiếp dẫn Quyền tiểu căn cơ tròn đầy quả Phật? Bồ Tát quyền thừa đọa lạc vào Thanh văn, số kiếp nhiều như cát bụi không thể quay về cũng như cây Phù hoa am la hoặc trứng cá sanh ra thì nhiều mà kết quả rất ít. Trái với bản hoài của Đức Thế Tôn là dẫn dắt tất cả chúng sanh thoát nẻo luân hồi. Nhưng Thanh văn chỉ mới dứt được phần đoạn sanh tử trong tam giới chưa gọi là thoát sanh tử. Bồ Tát vị mới đoạn được trần sa hoặc nên còn bị biến dịch sinh tử. Chỉ có Phật quả diệt vô minh mới thoát hẳn sanh tử. Chính vì hoài bảo đó nên Phật dạy pháp môn niệm Phật. Nếu người chuyên tâm niệm Phật, phát khởi tròn đủ ba tâm, tự nhiên chuyển quyền thành thật, từ tiểu thừa hướng đến đại thừa, như người dân quê uống được tiên đơn, nhận được bí cấp bỏ tục thành tiên. Trong Đại Bổn A Di Đà nói: “Bồ Tát muốn làm cho chúng sanh mau chóng an trụ quả Bồ Đề vô thượng, cần phải khởi lòng tinh tấn nghe pháp môn niệm Phật này.” Kinh Hoa Nghiêm nói: “Hàng thập địa trước sau không được rời niệm Phật”. Trong hội Hoa Nghiêm thính chúng toàn bậc viên giáo đăng địa còn như thế huống chi hàng quyền thứa Bồ Tát và Thanh văn là những hàng sơ tâm mà không chuyên tâm niệm Phật để tròn đầy quả Phật sao?
– Vì sao phải độ thoát ba bậc không còn nghi hối? Những hàng thượng phẩm lợi căn nghe giáo lý tiểu thừa thì thối liệt, hàng hạ phẩm độn căn nghe giáo lý đại thừa thì sanh nghi. Vì thế, trên hội Hoa Nghiêm hàng thanh văn không có mặt, trong thời A Hàm Bồ Tát ít thấy. Hôm nay, thời Pháp niệm Phật này như thuốc trị vạn bệnh, dù nặng dù nhẹ dùng vào liền lành, như trận mưa đúng mùa cỏ cây đều tươi tốt. Vì thế, Pháp môn này được gọi là Pháp môn bao gồm hết các căn chậm mau, thâu hết các bậc thượng trung hạ không còn nghi hối.
Vì sao gọi là lợi ích đời này đời sau trùm khắp không cùng? Lợi ích đời này là khi Phật còn trụ thế, bất cứ ai nghe Phật dạy Pháp môn Tịnh độ đều chứng quả. Ở Hội Linh Sơn Bà Di Đề Hy nghe xong chứng vô sanh nhẫn, năm trăm Tỳ nữ đều được vãng sanh. Phụ vương Bạch Tịnh nghe Pháp niệm Phật chứng vào thánh qua, nguyện vãng sanh. Lợi ích cho đời sau là sau khi Phật diệt độ đem lợi ích cho đời sau là Kinh này còn lưu truyền thạnh hành. Theo lời huyền ký của Đức Thế Tôn. Sau khi kinh Phật không còn ở thế gian, thì kinh Tịnh Độ này còn lưu lại 100 năm, bất cứ ai theo đó tu hành đều được độ thoát. Trong chương Niệm Phật Viên Thông này, Bồ Tát đã nguyện: “Nay ở trong cõi này tiếp dẫn người niệm Phật sanh về cõi Tịnh Độ”. Quán kinh nói: “Đức Như Lai hôm nay vì tất cả chúng sanh bị hại bởi giặc phiền não nói phương pháp làm cho nghiệp hoặc thanh tịnh, như đem châu Như ý cứu giúp người nghèo, lợi ích không cùng.”
– Vì sao mau nhiếp sáu căn chứng cảnh Viên Thông? Tất cả chúng sanh mê tâm thường trụ, dùng các vọng tưởng, chung theo sắc thanh, trái với cảnh Viên Thông. Hôm nay người niệm Phật đều nhiếp sáu căn trở về chơn thường. Thường tịch quang hiện tiền thì cảnh giới viên thông phát khởi, tuy không muốn chứng viên thông cũng không thể được. Nên trong Kinh Hoa Nghiêm, Giải Thoát trưởng giả thưa: “Biết rằng tất cả chư Phật cũng như cảnh tướng, tự tâm như nước, nước trong và yên lặng thì toàn thể mặt nguyệt hiện ra. Có bài kệ rằng: “Bồ Tát ví như nguyệt trong sáng, thường dạo nơi chỗ không cứu kính. Nếu tâm chúng sanh cấu uế sạch, bóng Bồ Tát sẽ hiện rõ ra”. Nên biết rằng, tâm niệm chúng sanh đã tịnh thì Di Đà chắc phóng hào quang. Nếu tâm như nước còn cấu uế, thì mặt nguyệt viên thông của Bồ Tát không thể hiện. Vì thế người tu Pháp môn niệm Phật mau chứng được viên thông.
– Vì sao mau dứt chướng phiền não chắc sanh cõi Tịnh? Người tu hành thời mạt pháp phần nhiều bị chướng nạn, tà ma não loạn, đạo Phật khó thành. Nay tu niệm Phật tam muội là nương theo oai thần nguyện lực của Phật, mau dứt trừ phiền não, đoạn tuyệt vô minh, ma ngũ uẩn tiêu tan, ba thân Phật hiểu lộ, một đời sanh về cõi cực lạc của Phật A Di Đà, thành tựu Phật qua, chơn thân và ứng thân, như một ngọn đèn sáng lớn đốt ở giữa nhà, không phải chỉ phá bóng tối ngàn năm mà còn thấy được tất cả vật. Tuy vậy, 10 nguyên nhơn phát khởi này sanh khởi theo thứ tự. Trước nói về vào đạo có nhiều cửa, khi vào có khó dễ khác nhau, từ đó chỉ pháp môn niệm Phật rất thẳng tắt dễ vào, vì là thẳng tắt nên phải niệm ông Phật tự tâm, do niệm ông Phật tự tâm mới có thể thành tâm Phật, tâm Phật nếu khế hợp thì chúng sanh và Phật đồng thể không hai không khác, vì không hai nên không có người nào mà không độ thoát, không chỉ người phàm mà hạng quyền, tiểu thừa đều được độ mà độ tất cả thiện, ác chúng sanh, không phải đời này mà khắp đời vị lai cũng mong được lợi ích, tế độ rộng lớn cùng khắp gọi là viên thông, chắc được thấy Phật vãng sanh Tịnh độ. Do niệm Phật chắc được sanh về cõi Phật, nên chỉ con đường thẳng tắt, làm cho người tu hành mau thành đạo Phật. Mười nhân duyên này như cái vòng xích sắt trước sau quyện nhau. Vì vậy, Phật muốn nói giáo pháp Tịnh độ chính là do 10 nhơn lớn này vậy.
II. Giáo Nhiếp của Tạng Thừa kinh này
Trong 49 năm Thuyết Pháp của Đức Phật những lời Phật nói ra hoặc Phật hứa khả gọi là Kinh, lời răn của Phật gọi là luật, dựa vào ý chỉ của Kinh luật, chư Tổ diễn dịch hệ thống hóa lại gọi là luận. Vì vậy khi khảo sát một bộ Kinh ta phải biết đó là Kinh, luật, luận là ta biết rõ lời ấy do Phật hay Tổ nói ra. Tam Tạng ở trên được chia làm 2 tạng là Bồ Tát Tạng và Thanh Văn Tạng, … gồm Tam Thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ Tát. Giáo có tiểu giáo thỉ giáo, chung giáo, đốn giáo và viên giáo.
Kinh này trong ba tạng thuộc về Kinh, trong hai tạng thuộc về Bồ Tát, trong ba thừa thuộc về Đại Thừa, trong năm giáo thuộc về ba giáo sau cùng. Khảo cứu vào một bộ kinh nếu ta biết rõ được tạng thừa giáo là chúng ta biết được thời ấy Đức Phật nói gì. Ba Tạng: 1- Tu Đa La dịch là Khế Kinh thuộc Kinh tạng nói về định học. 2- Tỳ Nại Tỳ, Nại Da dịch là Điều Phục thuộc về Luật Tạng nói về giới luật. 3- A Tỳ Đạt Ma dịch là đối Pháp thuộc luận tạng nói về huệ học. Đoạn này thuộc về kinh tạng, từ trước đến sau chuyên nói về niệm Phật Tam Muội.
Về Tạng giáo có 2 tạng:
1. Bồ Tát Tạng chuyên chỉ về lý hành và quả của Bồ Tát. 2- Thanh Văn Tạng chỉ bài về lý hành và quả của Thanh Văn. Kinh này thuộc về Bồ Tát Tạng, toàn thể dien nói Pháp Bồ Tát niệm Phật Viên Thông. Về Tam Thừa có 3: 1- Tiểu thừa Thanh Văn, tu theo pháp môn tứ đế, đưa chúng sanh ra khỏi ba cõi, đến Niết Bàn, thành bậc A La Hán, như xe dê. 2- Trung Thừa duyên giác, tu pháp môn thập như nhân duyên, đưa chúng sanh vượt khỏi tứ không, ở nhà tịch diệt, thành Bích Chi Phật, như xe hươu. 3- Đại thừa Bồ Tát, tu pháp môn lục độ, đưa chúng sanh, vượt qua cảnh giới phàm phu và tiểu thừa, thẳng đến Bồ Đề Đại Niết Bàn bên bờ kia, thành tựu quả Phật, như xe trâu trắng. Nay kinh này thuộc về Đại thừa, vì Đức Như Lai thương nhớ chúng sanh, Ngài Thế Chí nhiếp hóa người Niệm Phật, an lạc về thế giới an lạc, độ thoát các loài chúng sanh. Về năm giáo có: 1- Tiểu giáo, chỉ nói về nhân không. 2- Thỉ giáo chỉ nói về pháp không, cũng gọi là phần giáo, chỉ nói về pháp tướng. 3- Chung giáo là nói về trung đạo, cũng gọi là thật giáo, phần nhiều nói về tánh không. 4- Đốn giáo chỉ biện luận về chơn tánh. 5- Viên giáo chỉ nói về pháp giới. Nay kinh này thuộc về chung giáo, đốn giáo và viên giáo. Trong kinh nói: nhớ niệm thâm sâu mẹ con nhiều đời không trái nghịch xa lìa thuộc về chung giáo, lần lần niệm Phật chung cuộc sẽ thành Phật. Hành giả dùng tâm niệm Phật, vào vô sanh nhẫn, chẳng nhờ phương tiện là đốn giáo, biết Phật chính là tâm, mau thành Phật đạo. Hành giả nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, được vào chánh định là viên giáo, hiểu rõ Phật tâm chúng sanh không sai khác, viên thông tánh Pháp giới. Căn cứ vào kinh này giáo nghĩa sâu rộng nhiệm mầu, người thiển cận khó biết.
III. Chỗ Tôn thú chỉ quy
Nói về Tông thứ có chia làm hai phần là chung và riêng. Nói về chung thì nhớ Phật niệm Phật làm Tôn, thấy Phật vào nhẫn tâm và cảnh viên thông làm thú. Nói về riêng thì có năm việc đối nhau: Về giáo và nghĩa thì dùng giáo thuyết làm Tôn làm cho đạt nghĩa là thú. Về sự lý thì lấy sự tưởng làm tôn, hiển bày lý là thú. Về cảnh và trí thì ba cảnh Phật làm tôn, hai quán trí là thú. Về hạnh và vị thì tín nguyện hạnh làm tôn, vào vị bất thối làm thú. Về nhân và quả thì lấy nhơn hạnh làm tôn, khắc quả Đức là thú.
Tôn thú là nói về tôn chỉ và quy thú. Theo đúng lời kinh dạy gọi là tôn, chỗ tôn hướng về gọi là thú, nếu không biết rõ tôn không từ đâu mà hướng về. Nói về giáo nghĩa là đem cách dạy niệm Phật để đạt nghĩa nói về tâm cảnh duyên niệm, chúng sanh và Phật cảm ứng không thể nghĩ bàn, lần vào Pháp nhẫn là ý nghĩa mình và người đồng sanh về Tịnh độ. Nói về sự lý thì tôn sùng các pháp niệm Phật chính muốn hiển bày tự tánh Di Đà duy tâm tịnh độ đến chổ rốt ráo. Nói về cảnh trí, cảnh là cái lý của sở quán, trí là tâm năng quán. Viên dung ba thân của Phật là chơn cảnh, sự và lý nhất tâm là chơn quán tới. Nói về hành và vị là tùy theo trí mà khởi ra ba tư lương tín hạnh nguyện, chẳng lui sụt vì tín Tịnh đã lìa ba cõi, vị sẽ không lui sụt, nguyện thất Phật tâm hằng niệm Phật là niệm chẳng lui sụt, thực hành tịnh nghiệp nhiếp thọ người niệm Phật là hạnh chẳng lui sụt, tin Phật đến đón tiếp, khác với phàm phu, ngoại đạo là tin không lui sụt. Trong luận khởi tín nói: “Có ba vị bất thối: 1- Thập tín thập hạnh chưa viên mãn chưa gọi là bất thối nhưng chỗ ấy không có duyên lui sụt nên cũng gọi là bất thối. 2- Thập tín đã mãn vào vị thập trụ, được thấy pháp thân, trụ trong chánh định nên gọi là bất thối. 3- Vị Nhị hiền đã mãn vào sơ địa, chứng biến mãn pháp thân, sanh vào vô biến cõi nên gọi bất thối. Do tín thành là tín bất thối, do nguyện thành là trụ bất thối, do hạnh thành là địa bất thối.” Trong Địa luận sư nói: “Thập trụ là chứng bất thối, Thập hạnh là vị bất thối, Thập hướng là hạnh bất thối,Thập địa là niệm Phật bất thối, do tín thành chứng vị, hành thành hạnh vị, nguyện thành niệm vị. Nói về nhơn và quả: Nhơn nếu không lui sụt gọi là nhân thật, quả nếu không lui sụt gọi là quả thật, người tin nguyện về cõi Phật, nhiếp căn tịnh niệm là không lui sụt nhơn và hạnh của Bồ Đề. Được tam ma Địa, chứng viên thông thứ nhất là không lui sụt quả Đức của Bồ Đề. Nhơn quả ở đây gồm có ba thứ: Nhớ niệm Phật A Di Đà là nhơn, hiện tiền thấy Phật là quả, niệm Phật gần Phật là nhơn, tâm mở tỏ là quả, tâm niệm là nhơn, tiếp người về tịnh độ là quả. Từ đó tôn thú do giáo nghĩa, sự lý, cảnh trí, hành vị và nhơn quả lần lượt cùng nhau làm nhơn mà sanh khởi.
IV. Huyền Nghĩa: Gồm năm lời giải thích
1- Giải thích tên đề. Trước nói về Đề Kinh: Đề kinh này nói cho đủ gồm 20 chữ: Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật nhơn, tu chứng liễu nghĩa, Chư Bồ Tát vạn hạnh, Thủ Lăng Nghiêm Kinh. Đại Phật đảnh là tướng quý trên đảnh đầu Phật. Như Lai Mật Nhơn là cái nguyên nhơn sâu kín của Phật. Tu chứng liễu nghĩa là tu chứng đúng với chơn lý cảnh giới Phật. Chư Bồ Tát vạn hạnh là muôn hạnh tốt đẹp của Đại Bồ Tát. Thủ Lăng Nghiêm là bền chắc không thối chuyển. Kinh này dạy Pháp tu vào chánh định. Chánh định này rất kiên cố, giúp người tu thẳng đến quả Phật. Các Bồ Tát muốn tu thẳng đến quả Phật phải tu pháp định này. Đó là nguyên nhân sâu kín giúp thành Phật. Kinh này rất cao quý nên ví với cái đỉnh đầu của Phật.
Kế giải tên chương. Chương gồm tám chữ là Đại Thế Chí niệm Phật Viên Thông Chương. Quán Kinh nói: “Dùng trí huệ sáng suốt khắp chiếu tất cả chúng sanh xa lìa ba đường được dử được quả vô thượng gọi là Đại Thế Chí”. Đây là dùng năng lực giáo hóa người khác mà được tên. Trong Kinh nói: “Bồ tát này phàm khi chân chấm đất, tất cả cung Ma ở đại thiên thế giới đều chấn động nên gọi là Đại Thế Chí.” Đây là dùng uy lực nhiếp phục quân ma mà được tên. Kinh nói: “Tôi không lựa chọn, nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhập vào chánh định gọi là Đại Thế Chí.” Đây là do trong lúc tu nhơn, tự lợi mà được tên. Niệm Phật là dùng quán trí ghi nhớ danh hiệu Phật, nhiếp thu tất cả sáu căn về Diệu Chơn như tánh. Nếu chúng sinh hằng ngày tưởng nhớ đến Phật, đổi cái mê lầm của chúng sanh thành cái nhận thức của Phật thì Phật sẽ hiện tiền không tin đâu xa nữa nên gọi: “Một câu Di Đà không niệm khác, móng tay vừa khảy đến trời Tây”. Nên gọi là niệm Phật gặp Phật. Viên Thông có nghĩa là trùm khắp viên thông. Chữ viên là tròn đủ gồm Pháp thân đức và Bát Nhã đức. Thông là thông suốt một đường ba phía không thể che ngăn, tức là giải thoát đức đây y theo lý mà giải thoát viên thông. Kẻ phàm phu xưng niệm Thánh hiệu của cực quả pháp thân liền được hương quang trang nghiêm nên được goị là nhơn gồm quả hải, quả thấu nguồn nhơn, đây là y theo hạnh để giải viên thông. Chương có nghĩa là một đoạn hoặc một bài. Toàn bộ Kinh Thủ Lăng Nghiêm có đến 10 quyển được phân chia làm nhiều đoạn. Chương này là một đoạn so với toàn Bộ Kinh. Đoạn này Phật hỏi các vị Đại Bồ Tát và các vị Vô Lậu Đại A La Hán trong lúc ban đầu mới phát tâm ngộ được viên thông ở giới nào và do phương tiện nào được Tam Ma đề. Đoạn này Bồ Tát Đại Thế Chí trình bày về viên Thông của mình.
2- Biện luận về thực thể: Thể là chất chủ yếu. Trong Thích Luận nói: “Trừ thật tướng các pháp ngoài ra đều là ma Sự”. Tất cả kinh điển Đại Thừa, đều lấy thật tướng làm dấu ấn, làm chánh thể của Kinh Vô lượng công đức đều trang nghiêm thật tướng, các thứ, công hạnh cũng đều trở về thật tướng, dùng hỏi đáp cũng nhằm giải thích hiển bày thật tướng, nhủ các sao buổi sáng đều hướng về Bắc, muôn sông đều chảy về Đông. Vì thế kinh này cũng như chương này dùng thật tướng làm thể. Nhiều sách giải về thể và dạy về thể, thể có cao thấp, nhỏ lớn, như vua và cha có thể cao, tôi con có thể thấp, nên biết thể là pháp rất quý và rất cao. Lại nữa, thể là chót đáy, cùng nguồn, rốt lý, tận tánh, thấu đáo thật tế gọi là triệt để (đáy). Thích luận nói: “Bể cả trí độ chỉ Phật mới hiểu tận đáy.” Nên lấy chỗ tận cùng để giải thích thể. Lại nữa, thể có nghĩa là đạt đến, được ý chỉ của thể sẽ thông đạt không có gì ngăn ngại, như gió thổi trong hư không tự tại vô ngại. Tất cả cái gì khác tên khác tướng đều không cùng thật tướng tương ứng, đều không được gọi là thực thể. Thích Luận nói: “Bác Nhã chỉ có một Pháp, Phật nói làm nhiều tôn.” Nên thật tướng là thật thể của chương này.
3- Định rõ Tôn chỉ của Chương. Trên đã nói thể của Tôn, kế đây giảng điển chính của Tôn. Có người nói tôn tức là thể, thể tức là tôn thì không đúng, vì thể thì không hai, tôn này có hai. Thể nếu có hai thì thể ấy không phải là thực thể. Tôn nếu không hai thì tôn ấy không phải là tôn. Như cột kèo là sườn nhà vẫn còn giữ chứ không phải bỏ luôn sườn trính kèo cột gọi và nhà trống. Nhà trống là nhà không có vật gì khác nhưng có đủ cột kèo. Tôn và thể nếu là một lỗi ấy cũng như thế. Tôn và thể là hai vật cô lập nhau thì tôn không thể là tôn hiển thể, thể không phải là thể của tôn. Nếu tôn không hiển được thể thì tôn là tà đạo không ấn chứng. Thể không phải là thể của tôn thì thể nhỏ hẹp không có tánh chất trùm khắp, lìa ngoài pháp tánh còn có các pháp khác, Tôn và thể khác nhau sẽ có cái lỗi như thế. Nay nói không khác mà khác vì có tôn, không một mà một vì có thể. Chương này lấy niệm bản tánh Di Đà làm Tôn. Cái khổ cõi Ta Bà làm mọi người chán, cõi Tịnh độ là cõi vui làm mọi người ưa thích, muốn về Tịnh độ phải niệm Phật.
4- Biện minh diệu dụng: Chương này lấy chiết nhiếp làm lực dụng. Người niệm Phật hiểu rõ cõi Ta Bà là khổ do lời dạy của Đức Bổn Sư là chiết, biết cõi cực lạc là cảnh giới an lạc mà Đức Từ Phụ A Di Đà lòng Đại từ như mẹ nhớ con lúc nào cũng đưa tay tiếp dẫn mong được con về. Hành giả nhớ Phật như con nhớ mẹ mong được trở lại cố hương gặp mẹ hằng ngày chờ đợi mõi mòn, chắc ngày về quê hương cực lạc không xa đó là đại lực dụng.
5- Phán Định giáo tướng. Trong 49 năm thuyết Pháp của Đức Phật, Ngài nhằm vào hai Bậc Thánh để thuyết Pháp. Suốt 12 năm đầu, từ thời thuyết pháp đầu tiên ở vườn lộc uyển nói pháp tứ đế Ngài nhằm vào các hàng Thanh Văn mà thuyết pháp nên được gọi là Thanh Văn Tạng. Từ đó về sau suốt 37 năm, Ngày chuyên nói giáo Pháp đại thừa dạy các hàng Bồ Tát tu tập. Chương này được phán đụnh là Đề Hồ Bồ Tát Tạng.
V. Giải Thích Chánh Văn
Toàn thể Kinh văn được chia làm 6 phần để giải thích. Thứ nhất làm lễ bạch rõ, thứ Ba đem thí dụ rõ về cảm và ứng hợp thứ nhau, hai thân thọ niệm Phật từ Cổ Phật, thứ tư tổng hợp các dụ để chỉ rõ chỗ lợi ích, thứ năm thuật rõ tự lực và lợi tha của chính mình và cuối cùng là kết đáp viên thông.
1- Làm lễ bạch rõ
Kinh văn: Pháp Vương Tử Đại Thế Chí cùng 25 Bồ Tát đồng tu, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng:
Đoạn kinh này thuộc về Kinh Thủ Lăng Nghiêm quyển thứ năm, chương Viên Thông. Chương này Phật bảo 25 vị Thánh, mỗi người đều trình bày công hạnh ban đầu đã dùng phương tiện gì mà chứng được viên thông. Các Thánh giả tự thuật Pháp tu của mình y cứ vào các căn trần thức, 12 xứ, mười tám giới, mỗi người đều được lợi ích chẳng đồng. Đây là vị Thánh thứ 24 trình bày về căn Đại Viên Thông hiệu là Đại Thế Chí. Đức Hiệu này có hai nghĩa: a- Nhằm vào năng lực tâm và Trí Huệ to lớn, tự mình có thể đoạn hoặc chứng chơn, cũng làm cho chúng sanh dùng trí huệ phá chấp tiến đến đoạn hoặc chứng chơn. b- Nói vào thân thì sức thần rất lớn. Bồ Tát này mỗi bước chân đi lai động thế giới. Hai thứ năng lực này vượt hơn tất cả, hết cả đối đải nên gọi là Đức Đại Thế Chí.
Pháp Vương Tử là hiển bày công đức của vị Bồ Tát này có khả năng tiếp nối gia nghiệp của Phật đáng được làm đứa con thân của Pháp Vương. Pháp Vương là chỉ cho Đức Phật, Phật là vua của các Pháp, ở trong tất cả Pháp đều tự tại. Bồ Tát này dùng Pháp môn niệm Phật để thu nhiếp sáu căn mà chứng được Viên Thông. Sơ nhơn của Ngài căn cứ vào kiến đại. Sáu căn mỗi căn đều lấy kiến văn giác trị làm kiến phần, vì khi niệm Phật sáu căn không nhiễm với sáu trần là thu nhiếp kiến phần của sáu căn vào câu hiệu Phật.
Cùng 52 vị Bồ tát đồng tu ý chỉ Pháp môn Niệm Phật rất thù thắng, không phải chỉ có một mình Bồ Tát Đại Thế Chí tu thành tựu mà có rất nhiều Bồ Tát đồng tu đồng chứng Pháp niệm Phật này. Năm mươi hai vị ở đây ý nghĩa biểu trưng độ khắp của Pháp môn Niệm Phật, từ hàng thấp tín, tam hiền, thập địa, đẳng giác, Diệu giác đồng tu. Tuy trong 52 vị, địa vị có cao thấp chẳng đồng, nhưng đồng tu chứng và đều có kết quả, nên cùng nhau rời khỏi tòa đến lễ chân Phật trình bày chỗ chứng.
2- Thân thọ Pháp niệm Phật từ cổ Phật.
Kinh văn: Con nhớ hằng hà sa kiếp về trước, có một đức Phật ra đời hiệu là Vô Lượng Quang. Mười hai Đức Như Lai tiếp nối nhau trong một kiếp. Đức Phật rốt sau hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, Đức Phật kia dạy con niệm Phật tam muội.”
Chữ con là lời tự xưng của Bồ Tát Đại Thế Chí vì Phật là Pháp vương còn Đại Bồ Tát là Pháp vương tử nên thường tự xưng là con. Chữ nhớ là ghi nhớ những việc về trước thuộc thời quá khứ. Chữ Hằng hà sa kiếp là chỉ số kiếp không thể đếm hết. Chữ Kiếp tiếng Phạn gọi là Kiếp-Pa, phiên âm gọi tắt là Kiếp. Kiếp là biểu thị về một phần của thời gian, như thế gian thường tình ngày, tháng, năm. Nhưng năm tháng là biểu trưng thời gian rất ngắn, còn kiếp số biểu trưng cho thời gian rất dài. Kiếp có tiểu kiếp, trung kiếp, Đại kiếp. Một tiểu kiếp gồm có 1680 muôn năm (16.800.000) Trung kiếp gồm có 20 tiểu kiếp. Đại kiếp gồm có 4 trung kiếp. Trên đây nói kiếp là chỉ cho Đại Kiếp. Ở Ấn Độ có một con sông rất dài tên Sông Hằng, hai bên sông có hai bải cát. Cát rất nhỏ và mịn. Tính một Đại kiếp là một hạt cát, đếm từng hạt cát cho đến đếm hết cát của toàn con sông. Đây là nói kiếp số cực Đại rất lâu xa, vượt ngoài sự tính toán và so lường của chúng ta. Nói hằng hà sa kiếp là chỉ kiếp số vô lượng.
Có một Đức Phật ra đời là đối với đời không có Phật. Như ngày nay, Đức Thích Ca Mâu Ni đã thành quá khứ. Đức Di Lặc thuộc vị lai chính là khoảng giữa Phật trước và Phật sau là thời gian không có Phật ở đời. Đức Thích Ca tuy thuộc quá khứ, nhưng nhờ có lời dạy của Ngài vẫn còn tồn tại, chúng sanh gặp được là có duyên. Chúng ta là hạng phàm phu do chướng nhiều như vi trần làm ngăn cách, làm tri thức hôn mê. Tánh ghi nhớ nếu có tốt lắm chỉ trong đời này hoặc đời trước, không ai nhớ được nhiều đời. Chư Phật và Bồ Tát có đủ túc mạng thông có thể nhớ các việc ở muôn ngàn kiếp trước, như ở trước mắt. Nên Kinh Pháp Hoa nói: “Quán thấy các việc lâu xa cũng như việc mới xảy ra ngày nay.” Bồ Tát Đại Thế Chí sau khi đảnh lễ đối trước Phật Thích Ca mà thưa rằng: “Con nhớ thời quá khứ hằng sa kiếp về trước có một Đức Phật ra đời hiệu Vô Lượng Quang, lần lượt có 12 vị Như Lai ở trong 1 kiếp tiếp nối thành Phật, vị Phật cuối cùng có hiệu là Phật Siêu Nhật Nguyệt Quang.
Căn cứ vào Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Xưng danh hiệu Phật A Di Đà cũng gọi là Vô Lượng Quang, Vô Biên Quang, Vô Ngại Quang, Vô Đối Quang, Diệm Vương Quang, Thanh Tịnh Quang, Hoan Hỷ Quang, Trí Huệ Quang, Bất Đoạn Quang, Nam Tư Quang, Vô Xứng Quang và Siêu Nhật Nguyệt Quang. Vì lấy Quang Minh lập tên Phân làm 12 hiệu. Một Hiệu A Di Đà Phật có đủ 12 thứ Quang Minh. Mười hai thứ Quang Minh này đều về Danh hiệu A Di Đà Phật, bao gồm không sót. Vì sao? Vì Phạn Ngữ phiên âm là A Di Đà dịch là Vô Thượng giải. Phật đã chứng quả giác, viên mãn rộng lớn, bao hàm tất cả Pháp nên có thể bao hàm các hiệu không sót.” Đọc đoạn văn trên cho biết Bồ Tát Đại Thế Chí trong vô lượng kiếp quá khứ về trước đã gặp 12 Đức Như Lai là Đức Phật A Di Đà ngày nay. Phật A Di Đà có ánh sáng vô lượng chiếu khắp các quốc độ trong 10 phương, không có chướng ngại nên có tên là Phật Vô Lượng Quang. Chúng ta ở thế gian lấy ánh sáng mặt trăng mặt trời là ánh sáng rất rộng lớn, có thể chiếu sáng khắp cả tứ Đại Bộ Châu. Ánh sáng của Phật A Di Đà so sánh với ánh sáng mặt nhật mặt nguyệt ở đây gấp trăm ngàn muôn ức bội nên gọi là Siêu Nhật Nguyệt Quang.
Bồ Tát Đại Thế Chí ở trong các kiếp đã qua trong quá khứ đã được gặp 12 vị Như Lai, tiếp nối trong một kiếp, Đức Phật cuối cùng hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang. Đức Phật kia đem Pháp môn niệm Phật khai thị, đây là Pháp môn viên đốn thẳng tắt, rất sâu xa thiết yếu. Bồ Tát sau khi nghe Pháp, nghiêm cẩn thọ trì, tinh tấn tu hành, nhờ Pháp niệm Phật mà được chứng tam muội. Đoạn Kinh văn trong chương này là Bồ Tát vì lòng Đại Bi hướng về Đức Thích Ca Mâu Ni tự thuật lại nhơn duyên thuở xưa Phát tâm tu hành và nguyên do chứng được niệm Phật tam muội. Chỉ có Pháp môn này viên đốn thẳng tắt, giản dị dễ tu, vượt qua tất cả Pháp môn và Bồ tát cũng vì lòng từ bi đến cõi Ta Bà ân cần mở đạo, làm cho tất cà mọi người đều có ngỏ vào. Chúng ta, hôm nay đã may mắn được gặp, có thể nói là thật sự có duyên với tịnh nhơn đời trước. Vì thế, chúng ta cần phải kính trọng nhận những lời dạy bảo, siêng năng tu tập.
Tam muội là danh từ chung, niệm Phật tam muội là danh từ riêng. Các Pháp mà 25 vị thánh tu hành đều gọi là tam muội: như nhãn tam muội, nhỉ căn tam muội, tỷ căn tam muội cho đến lục thức tam muội, thất đại tam muội. Ngoài ra còn có đến trăm ngàn thứ tam muội cho đến vô lượng tam muội. Phạn ngữ Tam muội dịch là Chánh định, cũng gọi là chánh thọ. Chánh định là riêng chỉ cho phàm phu bất định và ngoại đạo tà định, chỉ y theo Phật Pháp để tu hành được chứng tam muội gọi là chánh định. Chánh thọ là hiển bày chẳng phải tà thọ mà cũng không nhận tất cả tà thọ, nên gọi là chánh thọ. Lại nữa, một cái định thì tất cả đều định nên gọi chánh định, một cái thọ tất cả đều thọ nên gọi là chánh thọ. Đây là hiển bày niệm Phật viên thông, trước do thấp lên cao lần đến chỉ huân tu cao tột, có thể làm cho nhân quả phù hợp, chúng sanh và Phật như một, một niệm toàn thể, toàn thể một niệm, thẳng vào chỗ Đức Quan Thế Âm nhỉ căn viên thông không khác.
Lại nữa, Niệm Phật cũng có 4 thứ là trì danh niệm Phật, quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật và Thật tướng niệm Phật. Bốn thứ niệm Phật này đều gọi niệm Phật tam muội, tuy chỗ hạ thủ hơi khác mà đắc quả thì hoàn toàn giống nên đồng gọi niệm Phật tam muội. Lại Niệm Phật tam muội là vua trong các tam muội, có thể thu nhiếp tất cả tam muội. Người niệm Phật đến trạng thái nhất tâm bất loạn lần thành tam muội, vì nhất tâm bất loạn nên thu nhiếp hết nghĩa chánh định và chánh thọ. Chúng ta niệm Phật phần nhiều vọng tưởng lăng xăng, không thu nhập niệm Phật viên thông, quyết tâm tu trì rất dễ thành tựu nhất tâm bất loạn. Trong Pháp môn niệm Phật phương tiện tuy nhiều, mà so với Pháp môn này thì đây là Pháp môn rất viên đốn thẳng tắt, giản dị dễ tu.
3- Cho thí dụ cảm ứng hợp nhau:
Kinh văn: Ví như có một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, hai người như thế, dù có gặp như không gặp, có thấy như không thấy. Nếu hai người cùng nhớ nhau hai người nhớ niệm mỗi lúc càng sâu, như thế từ đời này sang đời khác, không thể xa lìa như hình với bóng.
Đoạn này là mượn thí dụ để diễn đạt từ gần đến xa, từ cạn đến sâu làm cho người nghe dễ dàng lãnh hội. Ví như có hai người A và B, anh A chuyên tưởng nhớ tới anh B, nếu anh B ra ngoài, tâm tưởng nhớ của anh A càng thêm khẩn thiết. Riêng anh B không bao giờ tưởng nhớ tới anh A, luôn luôn không có hình ảnh anh A trong ký ức. Như thế hai người có gặp cũng như không gặp, có thấy cũng như không thấy, vì không hẹn gặp nên không bao giờ gặp, vì không muốn thấy nên không bao giờ được thấy. Nói gặp hoặc thấy là chỉ cho anh A, vì anh A tuy xa anh B vì chuyên nhớ nên khi tưởng nhớ phảng phất thấy anh B như ở bên cạnh và trước mặt, cho đến trong mộng cũng thấy như thế. Nói không gặp và không thấy là chỉ sự chuyên quên của anh B. Vì anh B chuyên quên, tuy cùng anh A đối diện nhau mà giống như chưa gặp chưa thấy. Xét về tình hình hai anh A và B kể trên, bởi anh B chuyên quên, nên anh A dù có nhớ tưởng thiết tha, rốt cuộc cũng khó gặp được nhau. Chỉ vì người chuyên quên mà làm cho hai người không thể gặp mặt, dù hai người có thấy nhau cũng như chưa thấy, sự sai lầm ấy là do người chuyên quên gây ra. Giả sử anh B nhớ tưởng anh A đồng như anh A nhớ anh B thì hai người chắc chắn không rời nhau như bóng với hình. Chẳng những đời này không rời nhau mà cho đến nhiều đời nhiều kiếp cũng không rời nhau.
Nói một người chuyên nhớ là dụ Đức Phật nhớ tưởng chúng sanh, còn một người chuyên quên là dụ tất cả chúng sanh tâm điên đảo không nhớ Phật. Đức Phật dạy: Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, không khác mãi mai, nếu chơn thật nhớ Phật niệm Phật cầu sanh Tây Phương, trong tương lai đều được thành Phật. Chỉ vì chúng sanh mê muội, bỏ cha trốn đi, trôi nổi trong biển khổ trược ác ở cõi Ta Bà, đời đời kiếp kiếp chịu các khổ não, cho đến bây giờ vẫn chưa dừng nghỉ. Đức Phật mở lòng thương xót, không giây phút nào quên. Đặc biệt, Đức Phật A Di Đà ở Tây Phương cùng chúng sanh cõi Ta Bà rất có duyên, vì vậy Ngài thương xót rát nhiều, mỗi niệm đều muốn hóa độ chúng ta, tiếp dẫn chúng ta xa rời bể khổ, vãng sanh về cõi cực lạc, suốt thời vị lai, đồng hưởng diệu lạc, từ đó tiến tu, đồng chứng Phật quả. Rất tiếc tất cả chúng sanh phần nhiều đều không có lòng hướng về Phật, cố phụ ơn Phật, thật đáng buồn thay! Những người chưa nghe Phật Pháp mà không tin Phật không nói làm chi, có những người đã nghe Pháp và tin Phật, vẫn có người còn chưa thật tin, tuy có niệm Phật mà chưa thật niệm, cùng với người chuyên quên này không khác. Dù Đức Phật mỗi niệm đều không quên chúng sanh mà chúng sanh không lòng hướng về Phật, tuy gặp Phật cũng đồng với không gặp, thấy Phật cũng như chưa thấy. Như có người đến chùa mà không lạy Phật, không cung kỉnh Phật, lòng không muốn thấy Phật, dù từ ở trong chùa đi ra cùng đồng như người chưa đến.
Cũng có người đến tham gia niệm Phật, miệng tuy niệm Phật, tâm không chí thành, người tuy ở tại Phật đường mà tâm hướng theo ngoại duyên, do đó, người niệm Phật thì nhiều mà được sanh về Tây Phương rất ít. Như một lãng tử trôi nổi phong trần, chạy theo vọng tưởng, không có ý trở lại nhà, nên cuối cùng không thể về nhà. Người không được về nhà vì chuyên quên, nên mất lợi lớn. Chúng ta hãy nhìn tượng Phật A Di Đà, một tay cầm đài sen, một tay buông xuống với tư thế tiếp dẫn chúng ta về Tây Phương. Nên biết, Phật muốn dẫn mà chúng ta không đi, thật là phụ lòng lành của Phật và không biết ơn Phật, nghĩ kỷ lại rất hổ thẹn. Nếu chúng ta thật có lòng hướng theo Phật, như người lạc loài đất khách nhiều năm, nay nhớ lại cố hương, một lòng muốn trở về nhà thì quyết định sanh về Tây Phương không khó. Nếu theo phương pháp hai người cùng nhớ, sự nhớ tưởng mỗi lúc mỗi nhiều thí đời đời không thể xa cách. Chúng ta nhờ Bồ Tát chỉ thị chuyên nhớ tưởng Phật A Di Đà chắc được vãng sanh thẳng đến thành Phật nên phải trân trọng nhớ lấy.
4- Hợp dụ để hiển bày chỗ chẳng xa lìa.
Kinh văn: Các Đức Như Lai ở mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con chạy trốn, tuy mẹ có nhớ tưởng thật nhiều đâu có được gì! Con nếu nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì mẹ con đời đời không thể rời xa nhau.
Pháp môn Tịnh độ chỉ có Phật với Phật mới có thể biết và thấy đầy đủ, Chư Phật Như Lai ở mười phương đều thương xót chúng sanh, đồng giáo hóa chúng sanh, xưng niệm Phật A Di Đà, phát nguyện vãng sanh Tây Phương. Đã đến được Tây Phương, tất cả đều xa lìa các khổ, thọ hưởng những diệu lạc tuyệt vời. Căn cứ vào các luận mới thấy sở dĩ các Đức Như Lai trong 10 phương chỉ dạy chúng sanh niệm Phật A Di Đà mà không dạy chúng sanh xưng niệm Đức Phật khác, vì Chư Phật ở 10 phương vẫn có lòng từ bi thương xót chúng sanh. Tuy Phật và Phật tương đồng mà nguyện lực cứu độ chúng sanh và phương tiện tiếp dẫn chúng sanh, chỉ có Phật A Di Đà là thù thắng bậc nhất. Vì sao? Vì chúng sanh nếu muốn dạo khắp tất cả tịnh độ thân cận Chư Phật trong 10 phương, trước tiên cần phải về Tịnh độ cực lạc ở Tây Phương, thân cận Phật A Di Đà, từ đó thường theo Phật học, có đủ thần lực, bay đi tự tại, chỉ trong một buổi sáng có thể cúng dường muôn ức cõi Phật khác ở mười phương. Do đó, Chư Phật trong 10 phương đồng dạy chúng sanh niệm Phật A Di Đà mà không dạy chúng sanh xưng niệm Phật khác. Lại nữa, Pháp thân Chư Phật xưa nay đồng một giác tánh, mỗi Phật đều bình đảng, không hai không khác, nên một nhiếp thu tất cả, tất cả là một nên Kinh nói: “Các Như Lai trong mười phương đồng một pháp thân”. Kinh Văn Thù Bát Nhã nói: “Niệm một vị Phật công đức vô lượng vô biên, cũng công đức niệm Chư Phật không khác.” Nếu luận về giác tánh viên mãn, không phải Phật với Phật bình đẳng, mà thật ra Chư Phật và chúng sanh cũng đều bình đẳng, dù rằng sự thật chúng sanh và Phật có mê và ngộ khác nhau, chơn và vọng cách xa.
Đứng về lý thể mà xét, chúng sanh và Phật thì xưa nay, phàm thánh cùng nguồn chúng sanh và Phật đồng bản thể, chơn thật nhất như, không hề sai khác, nên Kinh nói: “Tâm Phật và chúng sanh, ba cái không có sai khác.” Chỉ vì Chư Phật và chúng sanh tánh đức tuy đồng mà tu đức đều khác. Vì sao? Bởi vì các Đức Như Lai từ vô thỉ kiếp đến nay thuận theo tánh mà tu, mỗi niệm đều thẳng vào diệu quả Bồ Đề, Phước Huệ viên mãn, vĩnh viễn nhận những diệu lạc. Còn chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay nghịch tánh mà tu, mỗi niệm lưu chuyển trong bánh xe sanh tử sáu đường, lần lượt bị đọa lạc, vĩnh viễn chịu thống khổ. Vì sao gọi là nghịch tu? Vì sao gọi là thuận tu? Tất cả chúng sanh từ đời này sang đời khác một lòng tham luyến cõi Ta Bà hy vọng sống lâu, mỗi niệm không rời, mỗi tâm không quên, do đó mà ý nguyện cách xa với nguyện lực của Phật một trời một vực. Vì không có thể mỗi niệm hướng Phật, mỗi tâm hợp với Phật nên gọi là Nghịch tu. Có người đọc kỷ 48 nguyện của Phật A Di Đà, trong mỗi nguyện đều hy vọng tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương đồng về Tây Phương, nếu mỗi niệm chí tâm hồi hướng, liền được Phật nhiếp thọ, trong tất cả thời phát nguyện chơn thật, nguyện xa lìa khổ Ta Bà, nguyện được về cõi tịnh độ an vui. Lúc ấy, chúng ta đem cái nguyện của mình đưa thẳng vào Bể Đại nguyện của Phật. Tâm nguyện hằng giữ không quên, chắc chắn cảm và ứng hợp nhau, chắc chắn Phật sẽ tiếp dẫn về cõi cực lạc.
Sở dĩ người thuận tu mau có công hiệu này là vì chúng sanh và Phật nguồn gốc vốn có tương quan đặc biệt, vì Phật và chúng sanh xưa nay tánh đức quan hệ với nhau, thiên nhiên cùng thể, tuy chúng ta cùng Phật cách 10 muôn ức cõi, nhưng Đức Phật A Di Đà thường trụ quả giác, không ra không vào, cho nên một niệm hồi hướng một niệm nhờ Phật nhiếp thọ, mỗi niệm hồi hướng là mỗi niệm nhờ Phật nhiếp thọ. Hai nguyện lực của Phật và chúng sanh có quan hệ mật thiết. Nếu chúng ta mỗi giờ thường phát nguyện thì thêm tương hợp với Phật, nguyện lực tương tiếp với Phật, như nam châm gặp sắt, không thể nào khác được. Nhơn có tánh đức như thế, tu đức như thế, hai thứ mật thiết tương quan, tự nhiên đồng thể. Vì vậy, nên mười phương Chư Phật đồng dạy chúng sanh xưng niệm Phật A Di Đà mà không xưng niệm Chư Phật khác. Nên cổ đức nói: “Tâm tôi cảm Phật tôi, Phật tôi sẽ ứng tôi, cảm ứng không có trước sau, chúng sanh và Phật đồng một thể.” Lại nói: “Tâm tôi cảm Chư Phật, Di Đà liền ứng hiện, thiên tánh tự tương quan, như nam châm gặp sắt.” Qua những lời Cổ Đức kể trên, có thể biết Phật A Di Đà cùng chúng sanh ở cõi này rất có duyên.
Lại nữa, Chư Phật trong ba đời đều lấy tám khổ là thầy, từ đó tu hành mới được thành Phật. Chúng sanh cõi vui khó khiến họ phát tâm niệm Phật. Chỉ có chúng sanh cõi Ta Bà này, thường bị tám khổ bức bách, khổ nhiều vui ít. Phàm gặp cảnh khổ, không thể chịu nỗi, chợt phát ra tiếng niệm A Di Đà Phật, không niệm Phật khác, vì đó là một việc tự nhiên, không có ai dạy. Từ đó biết rằng Đức Phật A Di Đà đặc biết có duyên với chúng sanh cõi Ta Bà. Nếu chúng ta niệm Phật hồi hướng thì gọi là thuận tu.
Ở trước đem thí dụ hai người như bằng hữu thân thích, tình niệm tuy thâm hậu, nhưng có người lạnh nhạt hoặc quên mất. Ở đây dụ hai người là mẹ con, tình cảm sâu đậm, thuộc về cốt nhục tình thâm. Từ mẫu thương con phát xuất từ thiện tánh, trải qua mười tháng cưu mang ba năm bú móm, nhường khô nằm ướt, nuốt đắng nhường ngọt, ẩm bồng nâng niu. Đứa con chỉ cần nghe tiếng mẹ là mừng rỡ vui cười. Con nếu có bệnh mẹ phải lo lắng quên ăn mất ngủ, ngày đêm lo buồn, nguyện hy sinh cả một đời cho con. Dù con đã khôn lớn, nếu ra khỏi thì nhớ, giờ hẹn đến chưa về, mẹ thường tựa cửa ngó mong, đứng ngồi không yên. Từ mẫu ở thế gian nhớ tưởng đến con có thể nói là không giờ nào không nhớ, không chỗ nào không nhớ, mỗi giờ mỗi chỗ chẳng lúc nào quên. Dù rằng con không nhớ mẹ nhưng mẹ mỗi niệm đều nhớ đến con. Mẹ tuy nhớ tưởng con mà con luôn luôn quên mẹ, không có ý tưởng về nhà, dù mẹ nhớ đến phát cuồng cũng trở thành vô ích.
Nếu mẹ luôn nhớ mà con trốn lánh, dù nhớ cho lắm cũng chẳng được gì! Nếu con hiếu thuận tưởng nhớ từ mẫu như mẹ nhớ con trong lòng không quean, dù con có ra đi rất xa, chắc chẳng bao lâu cũng trở về gặp mẹ. Thí dụ này rất rõ ràng ai cũng có thể hiểu được rằng ở thế gian con và mẹ là tình thâm cốt nhục. Mười phương Như Lai thương chúng sanh như mẹ thương con, từ đó chúng ta biết, Phật A Di Đà lập nguyện tu hành, trang nghiêm tịnh độ, tiếp dẫn chúng ta. Phật A Di Đà đưa tay tiếp dẫn chúng ta không mỏi mệt, như từ mẫu lòng thương con, gần gũi an ủi không khác. Nhưng từ mẫu thương con chỉ một đời, còn Phật thương chúng sanh nhiều kiếp, nhưng chúng sanh say mê điên đảo, cô phụ ơn Phật, chạy trốn trong bể sanh tử, luân hồi trong sáu nẻo, vừa ra khỏi bào thai lại vào, noản thấp hóa, từ đời này sang đời khác, thay đổi chẳng dừng.
Chúng ta hiện nay, may được thân người, sanh ở thành thị, được nghe Phật Pháp, lại được nghe pháp môn niệm Phật vãng sanh tịnh độ, vô cùng vi diệu, đầy đủ thẳng tắt giản dị dễ tu, không cần nhiều kiếp, chỉ một đời là thẳng đến Phật quả. Chúng ta cần phải sanh lòng khát ngưỡng, hết sức vui mừng, như con nhớ mẹ, mỗi niệm mong được gặp mặt, mỗi tâm nhớ mãi không quên, từ đây về sau thường nên nhớ tưởng Phật A Di Đà, tưởng như gặp cha lành vô thượng. Tưởng Bồ Tát Quan Thế Âm, Đại Thế Chí là bạn tốt, tưởng Hải Chúng Thanh tịnh là bạn lành và nhớ cực lạc thế giới tưởng là quê hương cứu kính an lạc.
Hiện tại phải có lòng tin chơn thật, ý nguyện thiết tha, trì niệm danh hiệu Phật, tu các công đức, làm tư lương dự bị, khi lâm chung tưởng như đến ngày trở lại quê hương. Nếu có thể nhớ tưởng rốt ráo như thế, lần lần chỗ sanh thuần thục, chỗ thuần thục chuyển sanh, dù ở trong mộng cũng có thể nhớ tưởng Phật, hoặc lạy Phật, niệm Phật, hoặc thấy tướng hảo, muốn rõ ràng xin đọc tiếp đoạn kinh sau.
5- Hợp dụ hiển bày lợi ích.
Kinh văn: Nếu chúng sanh tâm nhớ Phật niệm Phật, hiện tiền và tương lai chắc được thấy Phật, cách Phật chẳng xa. Không nhờ phương tiện tự được tâm mở tỏ. Như người xông hương, thân có mùi hương, đây gọi là hương Quang trang nghiêm.
Đoạn này là nói về chánh pháp viên thông, do thí dụ ở trên mà hội giải được chánh pháp, nhờ chánh pháp mà thân đạt chánh nghĩa. Bồ tát dạy rằng: Chúng sanh, mọi người nếu có thể tự phát tâm, nhớ Phật, niệm Phật, niệm đến sức cực công thuần, niệm đến tất cả trở về một, hoặc ở hiện tại hoặc ở tương lai nhất định thấy Phật, cách Phật không xa. Nói về chúng sanh thấy Phât cũng có thấy Pháp thân và thấy sắc thân chẳng đồng. Vì sao gọi là Pháp thân? Nếu biết chúng sanh mỗi niệm tâm giữ chí thành, nhớ Phật niệm Phật thì mỗi niệm nhập vào quả hải thanh tịnh pháp, thân của Phật A Di Đà, như nước rót vào nước tự nhiên hòa hợp. Hòa hợp hoàn toàn, toàn thể tròn đủ, tự lực và Phật lực không xa cách mãi mai, mau nhiếp toàn thân trụ ở trong pháp thân quả hải của Phật A Di Đà, Chẳng ra chẳng vào, chẳng có chẳng không, nhờ Phật hàm dưỡng, an định rõ ràng. Nếu được thấy như thế, gọi là thấy pháp thân Phật.
Nếu dùng Phật nhãn mà xem thì chúng sanh trong 9 cõi đều ở trong pháp thân quả hải của Như Lai, một thể tròn đẩy đều không có chút sai khác. Chỉ do chúng sanh say mê điên đảo, không biết không hiểu những việc chung quanh, như cá ở trong nước không biết có nước, như chim bay trên không chẳng biết hư không. Vì sao gọi sắc thân, chúng ta hiện nay muốn thấy sắc thân vi diệu của Phật A Di Đà, chỉ cần mỗi niệm tạm ở chỗ chí thành, gìn giữ danh hiệu, trong miệng niệm được rõ ràng, trong tai nghe được rõ ràng, trong tâm biết được rõ ràng. Nếu miệng tuy niệm Phật mà trong tâm mặc dầu suy nghĩ đông tây thì đây không phải niệm Phật. Người niệm Phật cần phải chuyên chú một niệm hiện tiền gọi là chánh niệm, mỗi câu hiệu Phật đều từ chánh niệm mà ra, tâm thường chuyên chú, vọng niệm tự tiêu, vọng niệm nếu khởi ra, giác tĩnh liền không. Cổ Đức dạy: “Không sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm. Dù chúng ta không giữ được chánh niệm hiện tiền, khi niệm Phật, cũng phải mỗi giờ gắng nhớ gắng tưởng một câu hiệu Phật đừng quên ở trong tâm lâu dần niệm được thành thục, mỗi niệm không quên. Chúng ta thường có nhiều việc vô ích vẫn ghi ở trong lòng, thậm chí trong giấc mơ cũng chẳng quên, nhưng đối với niệm Phật thì không được như vậy. Chúng ta đâu biết rằng niệm Phật là vì việc lớn thứ nhất để thoát khỏi sanh tử. Nay niệm Phật dùng để thoát khỏi sanh tử, là thuyền lớn để ra khỏi sanh tử, nếu để mất thuyền chắc chìm trong biển khổ, không bao giờ ra khỏi. Quán sát kỷ chúng ta có thể biết niệm Phật là một việc lớn trong tất cả việc lớn của kiếp người. Chúng ta muốn thoát khỏi sanh tử cần phải nổ lực hoàn thành việc lớn này. Nếu mọi người đều mỗi giờ nhớ Phật, niệm Phật ở trong tâm, chắc chắn được thấy Phật hoặc trong hiện tại hoặc thấy trong tương lai. Nói thấy hiện tại là chỉ cho chúng ta có khi thấy Phật trong mộng, hoặc thấy trong định; có khi thấy chơn thân Phật, có khi thấy hóa thân Phật.
Ngày xưa, Sơ Tổ Tịnh Độ Đại Sư Huệ Viễn ở trong định 3 lần thấy Phật. Tam Tổ Thừa Viễn và Tứ Tổ Pháp Chiếu tu theo Thập lục Diệu Quán, thường ở trong định thấy Phật. Tổ Thiên Thai Đại Sư Trí Giả tu Pháp Hoa Tam muội, có một ngày ở trong định, bỗng nhiên, thân thấy Hội Linh Sơn chưa tan. Các vị kể trên là hiện tại thấy Phật, cũng là chơn thân Phật. Ngày xưa, người niệm Phật hiện tiền thấy Phật rất đông, ngày nay tuy người niệm Phật có người thấy Phật, nhưng không được nhiều, lại phần nhiều là thấy hóa thân Phật, vì công hạnh ngày nay không bằng công hạnh người xưa.
Những hành giả niệm Phật, đến khi lâm chung thấy Phật đến rước, vãng sanh về Tây Phương, ở trong ao thất bảo, hoa nở thấy Phật, từ xưa đến nay nhiều không thể kể xiết. Các hành giả niệm Phật kể trên đều là người tương lai thấy Phật. Chỗ thấy của họ phần nhiều là Pháp thân Phật. Tóm lại, niệm Phật thấy Phật như người trồng dưa được dưa, chẳng có gì nghi ngại, chỉ tùy theo năng lực mỗi người mà chỗ cảm thấy có chậm có mau, hoặc thấy hiện tiền hoặc thấy tương lai cũng tùy theo năng lực của mỗi người. Nếu biết chuyên tâm niệm Phật, lập nguyện vãng sanh thì nguyện lực của chúng ta cùng nguyện lực của Phật tự nhiên hợp nhau, hiện tiền hoặc tương lai chắc sẽ được thấy Phật. Đây là nói về thấy sắc thân của Phật. Khi đã sanh về Tây Phương rồi, vĩnh viễn không lui sụt, từ đó tiến tu thẳng đến thành Phật, nên gọi cách Phật chẳng xa. Chúng ta nên biết, Phật có 3 thân, ứng thân và báo thân đều lấy Pháp thân làm thể, như bóng trong gương, trăng trong nước, nếu biết rõ như vậy thì gọi là sự và lý không ngại, gốc ngọn là một, đem công đức tu tập này hồi hướng về tây phương, chắc chắn vị cao thượng phẩm.
Không nhờ phương tiện tự được tâm mở tỏ cũng có hiện tại và tương lai chẳng đồng, Chúng ta là những người chuyên tâm niệm Phật, không cần mượn phương tiện của các Pháp môn khác. Các thứ phương tiện như tham thiền, nghiên cứu giáo lý, chỉ cần tuân theo pháp môn niệm Phật, mỗi niệm giữ tâm chí thành, gìn giữ danh hiệu Phật A Di Đà, như nước đổ vào nước, lần lần hòa hợp, từ đó tự nhiên thâm nhập quả hải viên mãn của Phật A Di Đà, an trụ chánh định thật tướng của Như Lai, nhờ Chư Phật hàm dưỡng có thể khiến cho nghiệp thức trần lao từ vô lượng kiếp đến nay lần lần tiêu diệt, tiêu dung đến chỗ rốt ráo, tâm địa bản giác bỗng nhiên mở tỏ, mau rõ suốt trong ngoài, quả hải bày rõ, chân Phật tròn đầy khắp cùng pháp giới. Nên nói không nhờ phương tiện tự tâm mở tỏ. Đây chính là nói hiện tại tâm mở tỏ.
Vĩnh Minh Đại sư nói: “Không thiên có Tịnh độ, vạn tu vạn vãng sanh, chỉ được gặp Di Đà, lo gì không khai ngộ”. Ý nói phàm người nào sanh về Tây Phương khi hoa nở thấy Phật nghe Phật thuyết pháp, đều ngay khi ấy liễu ngộ lý vô sanh, tâm địa thật tướng bỗng nhiên mở tỏ hiểu biết tất cả y báo, chánh báo, sắc tâm trong 10 phương, hoặc sắc hoặc không, hoặc nhiễm hoặc tịnh đều ở hiện tiền một niệm, trong tâm Bồ Đề chơn thật, một thể tròn đầy, không thiếu không dư. Đây là chỉ cho tâm mở tỏ ở đời vị lai.
Xét kỷ những điều kể trên chúng ta có thể biết pháp niệm Phật hạ thủ rất dễ mà thành công rất cao, mọi người đều có thể tu, bất cứ ai cũng tập được. Có thể nói đây là Pháp môn trùm khắp ba căn, mau chậm đều thâu là phương tiện thứ nhất trong các thứ phương tiện đưa người ta về chỗ liễu sanh thoát tử, siêu phàm nhập thánh. Đây là phương pháp thẳng tắt nhất trong các pháp thẳng tắt không có pháp nào hơn niệm Phật. Lại cần phải tin chắc pháp môn niệm Phật là vô thượng thâm diệu thiền. Vì sao? Vì sau khi sanh về Tây Phương chẳng phải chỉ có khai ngộ mà lần đến thành Phật. Phật quả đã thành thì còn có Pháp nào vượt qua Pháp thành Phật.
Như người ướp hương thân có mùi hương gọi là Hương Quang trang nghiêm. Thí dụ này rất rõ ràng có thể đưa người đọc từ cạn vào sâu cho đến chỗ cứu kính. Vì sao? Như chúng ta không nhiếp tâm niệm Phật, chắc niệm chúng sanh, không niệm Tịnh độ nhất định niệm Ta Bà, mỗi niệm không bỏ, mỗi niệm không quên như keo như sơn dính mãi, khó thoát khó lìa, cho đến trọn đời không khi nào quên bỏ, thường bị ngũ dục trần lao cõi Ta Bà che lấp, như chỗ ở ô uế tối tăm, không hay biết thì làm sao có thể được mùi thơm. Người lấy niệm Phật tâm thường chí thành, nhớ Phật niệm Phật chính là cùng cái nhơn tâm của mình mà nhập vào quả giác của Phật. Lâu dần huân nhiễm, càng nhập càng sâu, như vào trong thất hương quang, lần thấy được rõ ràng, lần có mùi hương tỏa khắp thân, dù không dứt hết nghiệp hoặc trần lao, thân chứng quả hải thật tướng của Như Lai, nhưng vẫn nhờ Quả giác thật tướng của Đức Như Lai hàm dưỡng, dùng công đức trí huệ trang nghiêm huân chiếu, đồng thời giác ngộ nghiệp hoặc trần lao làm cho nó lần lần giảm thiểu. Lần lần nhẹ bớt, trí huệ sáng suốt, lần lần thông đạt, lần lần tròn đủ.
Lại nữa, Hương dụ cho tánh đức, Quang dụ cho trí đức, nhiễm dụ cho tu đức. Do tu đức mới hiển bày bản thân tánh đức, do hiển bày bản thân tánh đức nên biết tành đức cùng Phật xưa này đồng thể, mải mai không ngăn cách, nếu bị cách ngăn là do nghiệp thức. Nay muốn tiêu diệt trần lao nghiệp thức nhiều kiếp, hiển bày tự tánh trí lực quang minh, chúng ta cần phải mỗi niệm giữ tâm ở chỗ chí thành, giữ gìn danh hiệu Phật, đem cái nhân tâm của chính mình nhập vào quả giác của Phật, như nước đổ vào nước, tô nước hòa trong nước, huân tu lâu dần, lần lần làm cho tâm quang thông đạt, tánh thể toàn bày được quả giác của Như Lai là bản giác của chính mình. Không thể rời bản giác của chính mình mà riêng có Quả giác của Như Lai, cũng như không thể rời quả giác của Phật mà riêng có bản giác của chính mình. Đây chính là chỗ nói nhơn gồm bể quả, quả thấu nguồn nhơn. Biết được nhơn gồm biển quả thì mỗi câu hiển bày tự tánh viên thông của niệm Phật. Biết được quả thấu nguồn nhơn thì mỗi niệm trụ quả giác trang nghiêm của Như Lai. Đây gọi là lấy cái trang nghiêm của Phật mà tự trang nghiêm cho mình, lấy cái trụ trì của Phật mà tự trụ trì cho mình. Cũng gọi là chỗ vào sức Phật nương theo mình. Chúng ta chỉ cố gắng huân tu, công đức sẽ không uổng, nếu gần thì hiện đời đốn ngộ, xa thì về Tây phương cũng ngộ, tuy có phẩm vị cao thấp khác nhau và thấy Phật mau hay chậm khác nhau, nhưng đến địa vị làm Phật đều bình đẳng không sai khác, đồng chứng vô thượng Phật quả.
6- Thuật lợi ích và kết đáp viên thông.
Kinh văn: Bản nhơn địa của con, dùng tâm niệm Phật vào vô sanh nhẫn, nay ở cõi này tiếp dẫn người niệm Phật về cõi Tịnh Độ. Phật hỏi Viên thông, con không chọn lựa, nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, được vào chánh định. Đây là thứ nhất.
Đây là Bồ tát tự thuật cái bản nhơn quá khứ tức là nhơn địa khi tu hành bắt nguồn từ pháp môn niệm Phật, lần lần thâm nhập vào Quả giác viên mãn của Như Lai, an trụ trong chánh định thật tướng của Như Lai. Tinh cần tu tập được chứng viên thông. Nói nhập vô sanh nhẫn là nhập vào Pháp nhẫn thật tướng của Như Lai, nhờ Phật hàm dưỡng, lần lần tăng trưởng định lực, không nhận sắc thinh hương vị xúc pháp của ngoại giới, sáu trần mất dấu, cách xa sáu căn chỉ còn chánh niệm nên gọi là nhập vô sanh nhẫn. Lại nữa, thân chứng thật tướng gọi được vô sanh, đã được vô danh thì đầy đủ sức nhẫn gọi là vô sanh nhẫn.
Đại sư Đại Thế Chí vận lòng Đại bi, nương đại nguyện lực, giáng sanh cõi này, giúp Phật giáo hóa. Ngoài đem chỗ tu niệm Phật Diệu pháp là nhơn địa quá khứ và quả địa đã chứng diệu Pháp viên thông, như châu ma ni để trên đài cao. Ngài khắp bảo chúng sanh, phát tâm tu tập, muốn dẫn chúng sanh đồng về Tây Phương Tịnh Độ, đồng nhận diệu lạc chín phẩm, nên ngay ở cõi này, tiếp dẫn người niệm Phật, về Tịnh độ. Cần phải biết, Bồ Tát trải lòng từ bi độ hết chúng sanh, cũng chỉ hóa độ những người có duyên, mà không thể hóa độ những người vô duyên. Quả như ông không tin niệm Phật, không nguyện vãng sanh, Bồ Tát dù có đủ đại thế lực, dùng hết sức để ép ông cũng không đi được. Vì sao? Vì do tự tâm là Phật, tự tâm làm Phật, tự tâm làm chúng sanh, tự tâm là chúng sanh. Khổ vui, họa phước đều do người tự làm ra, không phải Bồ Tát có thể cho được. Chỉ có những người tin nguyện niệm Phật, cảm ứng hợp nhau, mới có thể tiếp dẫn. Xưng nguyện vãng sanh, thí như một cái máy thâu âm, cần có tiếng tốt, mới có thể thâu vào tốt được. Quả như không có tiếng thì có thâu cũng không có tiếng. Bồ tát tiếp dẫn chúng sanh cũng thế. Xin toàn thể chúng ta suy nghĩ kỷ đừng để nhầm lẫn.
Nói Tịnh độ là gồm cả 4 cõi là Thường Tịch Quang Tịnh Độ, Thật Báo Trang Nghiêm Tịnh Độ, Phương Tiện hữu dư Tịnh Độ và Phàm Thánh đồng cư Tịnh độ. Mỗi cõi sen chia làm 9 phẩm cao thấp chẳng đồng, đều do người thực hành, công hạnh có sâu cạn nên có sai khác, nên mỗi người sanh về Tịnh Độ phẩm vị đếu có cao thấp khác nhau, chỉ cần cố gắng liên tục, công dụng tự nhiên thăng tấn. Tổ Ngẫu Ích nói: “Được sanh hay không toàn do tin nguyện có hay không, phẩm vị có cao thấp đều do trì danh có sâu cạn.” Nếu người tin sâu nguyện thiết, niệm Phật chưa được nhất tâm, được sanh về đồng cư Tịnh độ.
Khảo sát cho kỷ về nhất tâm có sự và lý chẳng đồng. Người được sự nhất tâm phải đoạn hết kiến hoặc và tư hoặc, chứng tương tợ nhất tâm sanh phương tiện hữu dư Tịnh Độ. Người được lý nhất tâm cần phải phá được vi tế vô minh, chứng thật tướng nhất tâm sanh về cõi Phật báo trang nghiêm Tịnh Độ. Người phá sạch hết vô minh, chứng cứu kính nhất tâm sanh về Thường Tịnh Quang Tịnh Độ. Xét những cảnh giới nhất tâm trên, người muốn thật được nhất tâm bất loạn cần phải đoạn hoặc nghiệp, thân chứng nhất tâm, sanh 3 cõi tịnh độ ở trên. Phàm phu trong đời mạt pháp này rất ít có người đoạn hoặc chứng chơn, chỉ có thể giảm thiểu toán loạn, cho đến dẹp bớt hoặc nghiệp không cho khởi, vãng sanh về Tịnh độ đồng cư phẩm vị cũng cao rồi, thoát ngoài sanh tử, lần chứng Phật thừa, nào có lo chi.
Phật hỏi viên thông của 25 vị Thánh, các Ngài tự thuật nhân địa tu hành của mình hoặc do nhãn căn mà vào để được viên thông, hoặc do nhỉ căn mà chứng viên thông, cho đến đất nước lửa gió đi vào mà chứng viên thông, chỗ đáp viên thông của các Ngài đều chẳng đồng. Chỉ có Bồ Tát Đại Thế Chí không cần lựa chọn, đề khởi chánh niệm, đều nhiếp sáu căn, một khắc tay năm ngón đều co lại. Nói nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tương tục là chuyên dùng nhất niệm hiện tiền chí thành làm chánh niệm. Do Chánh niệm làm chủ nên có thể nhiếp hết sáu căn. Nhơn địa thuở xưa của Bồ Tát là niệm Phật, là chuyên dùng một niệm hiện tiền chí thành, mỗi niệm trụ ở bản giác chính mình, trong tâm nhớ Phật niệm Phật. Vì sao? Vì sáu thức nhẫn nhĩ tỉ thiệt thân ý thường ở sáu căn, tham nhiễm sáu trần, như ngọc vùi trong bùn nên gọi là không sạch. Chỉ có mỗi niệm tâm giữ ở chỗ chí thành, gìn giữ danh hiệu Phật, làm cho hành giả lần lần ngược với trần lao hợp với tánh giác ngộ, bỏ vọng về chơn, từ ngọn hướng về cội, gốc, chuyển nhiễm thành tịnh mới được gọi là tịnh. Nên nói: Một niệm chí thành một niệm tịnh, mỗi niệm chí thành mỗi niệm tịnh nên gọi tịnh niệm tương tục.
Thanh tịnh Bản giác của chúng sanh là quả giác viên mãn của Phật A Di Đà. Vì sao? Nếu dùng Phật nhãn để quán sát thì trên đến 10 phương Chư Phật dưới đến hữu tình trong 9 giới đồng một thể tánh giác viên minh, không sai khác. Chỉ vì chúng sanh mê lầm điên đảo, không hiểu không biết cho nên chúng ta tuy ở trong tâm chơn thật, quả giác viên mãn của Phật A Di Đà, trải qua ngàn muôn kiếp đến nay mà vẫn không hiểu không biết, như cách xa ngàn muôn dậm. Nếu chúng ta muốn vào quả giác viên mãn của Phật A Di Đà, an trụ trong thật tướng chánh định của Như Lai, chỉ cần mỗi niệm tâm giữ chí thành trì danh hiệu Phật, mỗi tâm giác chiếu chẳng cho đổi dời, tự nhiên nhiếp hết sáu căn, tịnh niệm tiếp nối vào quả giác của Phật, ở trong chánh định của Phật, nếu biết dời đổi, nhiếp lại làm cho trở về tập lâu thuần thục không cần gắng sức. Vì sao? vì chổ thắng diệu của Pháp vị còn ngon hơn đề hồ, cái vui của Pháp vị, cao hơn ngũ dục, như ong hút mật đã được mùi mật, hút mãi không nhàm đuổi cũng không đi, ngăn cũng trở lại. Người thực hành niệm Phật cũng như thế, nếu biết được mùi vui của tam muội, tự nhiên tâm không dời đồi, tâm như chẳng động, ở chỗ chánh định của Phật.
Tâm ma địa là biệt danh của chánh định, như hột giống ở trong đất, như hạt ở trong trái, nên nói chính nhân là quả, nhơn quả đồng thời, tự lực và tha lực hợp thành một thể tuyệt đối đãi viên dung, vượt tình lìa chấp, không thể nghĩ bàn. Nếu nói, về phương diện tâm năng niệm là chỉ tự tánh hiện ra viên thông niệm Phật. Nếu căn cứ vào phương diện Phật bị niệm mà nói thuần là quả giác viên mãn của Phật A Di Đà. Ở đây là mượn quả của địa giác mà nhiếp địa tâm, đem cái nhơn địa tâm gồm cái quả địa giác. Xét đây có thể biết pháp môn niệm Phật rất đốn rất viên, nhơn có thể trùm qua, quả có thể nhiếp nhơn, nhơn và quả nhiếp nhau, chúng sanh và Phật dung hợp, thẳng tắt rõ ràng toàn thể tròn đủ, toàn thể là một niệm, một niệm là toàn thể, đây không phải niệm Phật viên dung sao!
Xét về chỗ thù diệu của Pháp môn niệm Phật như diệu dược trị bệnh trầm kha, như thuyền từ đưa người vượt phàm vào thánh, mau được công hiệu không pháp nào bằng, nên nói được Tam ma địa này gọi là thứ nhất. Ai là bậc thượng căn lại bỏ pháp huyền diệu này để cầu pháp khác không đáng tiếc ư! Pháp môn niệm Phật này không phải chỉ có Bồ Tát Đại Thế Chí ân cần khuyên tu mà tất cả Chư Phật Ba đời trong 10 phương cũng đều ân cần khuyến tấn. Vì sao? Vì Pháp này nhờ Phật tiếp dẫn, sanh về Tây Phương, tuy chưa dứt hết hoặc nghiệp nhưng đã xa lìa sanh tử, mới ra khỏi hoa sen liền lên vị bất thối. Bình thường nói đới nghiệp vãng sanh là mang hoặc nghiệp của chính mình vãng sanh về cõi Phật. Nói lập địa thành Phật là chỉ mỗi niệm trụ quả hải viên giác của Phật. Vì sao? Vì quả giác viên mãn của Phật A Di Đà là nhất chơn Pháp giới nên gọi Phật A Di Đà là Pháp giới toàn thân.
Nếu luận về thể của pháp môn Tịnh Độ, mỗi Phật đều đồng nhau, cùng chỗ chứng quả của tất cả ba đời mười phương Chư Phật, cùng một thể viên dung, không hề có chỗ sai khác. Nếu luận về dụng của Pháp môn Tịnh độ chỉ có Thế Tôn A Di Đà là bậc nhất nên có câu: “Ba đời mười phương Phật, A Di Đà Bậc Nhất, chín Phẩm độ chúng sanh, oai đức không cùng cực.” Đây chính là chỗ tuyệt diệu thù thắng của Pháp môn niệm Phật. Thật vậy, ngoài pháp môn niệm Phật ra, dù người tu hành có cao tiêu cách mấy, nếu chưa đoạn sạch hoặc nghiệp mà muốn được liễu thoát sanh tử, siêu phàm nhập thánh đều không có chút hy vọng. Vì sao? Vì người chuyên tu theo pháp tự lực dù có biết tâm, hiểu gốc, đoạn hoặc chứng chơn, bỏ phàm vào thánh cũng không có hy vọng do chưa chứng được vị bất thối, mà muốn thẳng đến Bồ Đề vĩnh viễn không thối chuyển đâu có thể thành công. Duy có Pháp môn Tịnh độ này, tuy là phàm phu, chưa đoạn hoặc nghiệp, được sanh về Tịnh độ là thẳng vào dòng thánh, lần đến thành Phật vĩnh viễn không lui sụt. Vì thế! Tất cả Chư Phật đều ân cần khuyên gắng tu. Chúng ta, ngày nay may được thân, người, lại gặp Phật pháp và gặp Pháp môn Tịnh Độ, đây là tam sanh hữu hạnh. Dám mong chúng ta hãy tin sâu lời Phật và Bồ Tát, gắng sức niệm Phật tu hành, đồng chứng tam muội, đồng về Tịnh Độ.
Đọc thêm:
Kinh Lăng Nghiêm – Niệm Phật Viên Thông
Kinh Thủ Lăng Nghiêm: Chương Ðại Thế Chí