KINH BI HOA – PHẨM THỨ NĂM – PHẦN II – PHÁP BỐ THÍ

KINH BI HOA - PHẨM THỨ NĂM - PHẦN II - PHÁP BỐ THÍ

Thiện nam tử! Thế nào là những pháp môn thanh tịnh hỗ trợ Bồ-đề của hàng Bồ Tát?

“Thiện nam tử! Bố thí là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì giáo hóa được chúng sinh.

Trì giới là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì được đầy đủ các nguyện lành.

Nhẫn nhục là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì được đầy đủ ba mươi hai tướng tốt,(1) tám mươi vẻ đẹp.

Tinh tấn là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì đối với chúng sinh luôn nỗ lực chuyên cần giáo hóa.

Thiền định là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì khiến cho tâm đầy đủ và được điều phục.

Trí huệ là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì có đủ khả năng rõ biết được các phiền não.

Nghe nhiều học rộng là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì đối với các pháp đầy đủ sự không ngăn ngại.

(1) Ba mươi hai tướng tốt: Xem chú giải ở trang 88.

Hết thảy công đức là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì tất cả chúng sinh đều được đầy đủ.

Trí nghiệp(1) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì đầy đủ trí huệ không ngăn ngại.

Tu định(2) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì được thành tựu tâm nhu hòa, hiền hậu.

Huệ nghiệp(3) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì lìa xa hết thảy mọi sự nghi hoặc.

Lòng từ là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì đối với chúng sinh được tâm không ngăn ngại.

Lòng bi là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì cứu vớt được mọi sự khổ đau của chúng sinh.

Lòng hỷ là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì ưa thích chánh pháp.

Lòng xả là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì dứt trừ mọi sự phân biệt yêu ghét.

Lắng nghe thuyết pháp là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì phá trừ được năm sự ngăn che.(4)

Xuất thế là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì xả bỏ mọi thứ mình có.

(1) Trí nghiệp: những hành vi tốt đẹp, những thiện nghiệp giúp có được quả báo tốt đẹp về mặt thế trí, hay nói cách khác là khi sinh ra được trí sáng suốt minh mẫn, thông minh hơn người.

(2) Tu định: hay tu tập thiền định, chỉ việc tỉnh giác duy trì chánh niệm.

(3) Huệ nghiệp: những hành vi tốt đẹp, những thiện nghiệp giúp có được quả báo tốt đẹp về trí huệ, hay nói cách khác là căn cơ lanh lợi, nhạy bén, có thể nắm hiểu nhanh chóng khi nghe thuyết giảng chánh pháp. Có sự khác biệt giữa thế trí và trí huệ giúp đạt đến sự giải thoát.

(4) Năm sự ngăn che: tức Ngũ cái, xem chú giải ở trang 327.

A-lan-nhã,(1) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì lìa hết những việc hối hả, gấp gáp.

Chuyên tâm nhớ nghĩ là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì được các pháp đà-la-ni.

Nhớ tưởng chân chánh là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì phân biệt được ý thức.

Tư duy là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì đối với các pháp được thành tựu mọi ý nghĩa.

Niệm xứ(2) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì đối với thân, thọ, tâm, pháp đều nhận biết phân biệt rõ ràng.

Chánh cần(3) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì dứt trừ các pháp bất thiện, tu tập các pháp lành.

Như ý túc(4) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì được thân tâm nhẹ nhàng, nhanh lẹ.

Các căn(5) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì thành tựu đầy đủ các căn lành cho hết thảy chúng sinh.

Các sức(6) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì đầy đủ khả năng phá trừ các phiền não.

Các giác ý(7) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì đối với các pháp được đầy đủ sự rõ biết tướng chân thật.

(1) A-lan-nhã: phiên âm từ tiếng Sanskrit là Araṇya, chỉ những cảnh vắng vẻ, tịch tịnh, Hán văn dịch là Không nhàn xứ, là nơi vắng không, nhàn tĩnh, xa làng xóm, không có sự tranh cãi. Ở đây chỉ những nơi thuận tiện cho việc tu tập thiền định.

(2) Niệm xứ: tức Bốn niệm xứ. Xem chú giải ở trang 99.

(3) Chánh cần: tức Bốn chánh cần. Xem chú giải ở trang 101.

(4) Như ý túc: tức Bốn như ý túc. Xem chú giải ở trang 102.

(5) Các căn: tức Năm căn hay Năm căn lành. Xem chú giải ở trang 83.

(6) Các sức: tức Năm sức (Ngũ lực). Xem chú giải ở trang 83.

(7) Các giác ý: tức Thất giác ý. Xem chú giải ở trang 84.

Chánh đạo(1) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì lìa xa hết thảy các đường tà.

Thánh đế(2) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì dứt trừ hết thảy mọi phiền não.

Bốn biện tài(3) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì trừ dứt được mọi sự nghi hoặc của chúng sinh.

Duyên niệm(4) là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì không cần nghe nơi người khác mới được trí huệ.

(1) Chánh đạo: tức Tám chánh đạo (Bát chánh đạo), là con đường mà người học Phật phải noi theo để đạt đến giải thoát, gồm 8 sự chân chánh như sau:

  1. Chánh kiến (正見, Pāli: sammā-diṭṭhi, Sanskrit: samyag-dṛṣṭi): có một quan niệm đúng đắn về Tứ diệu đế và giáo lý Vô ngã.
  2. Chánh tư duy (正思唯, Pāli: sammā-saṅkappa, Sanskrit: samyak-saṃkalpa): suy nghĩ đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý một cách không sai lầm.
  3. Chánh ngữ (正語, Pāli: sammā-vācā, Sanskrit: samyag-vāc): nói lời chân chánh, không nói dối, không nói phù phiếm.
  4. Chánh nghiệp (正業, Pāli: sammā-kammanta, Sanskrit: samyak-karmānta): theo các nghiệp lành, chân chánh, tránh phạm vào giới luật.
  5. Chánh mạng (正命, Pāli: sammā-ājīva, Sanskrit: samyag-ājīva): tránh các nghề nghiệp phải giết hại như đồ tể, thợ săn, buôn vũ khí, buôn thuốc phiện…
  6. Chánh tinh tấn (正精進, Pāli: sammā-vāyāma, Sanskrit: samyag-vyāyāma): tinh cần phát triển điều thiện, diệt trừ điều ác. Pháp này bao gồm cả Tứ chánh cần.
  7. Chánh niệm (正念, Sanskrit: samyag-smṛti, Pāli: sammā-sati): tỉnh giác trên cả ba hình thức thân, miệng và ý.
  8. Chánh định (正定, Pāli: sammā-samādhi, Sanskrit: samyak-samādhi) : tập trung tâm ý đạt bốn định xuất thế

(2) Thánh đế: tức Bốn thánh đế (Tứ thánh đế) hay Tứ diệu đế. Xem chú giải ở trang 80.

(3) Bốn biện tài (Tứ biện) hay Tứ vô ngại biện. Xem chú giải ở trang 102.

(4) Duyên niệm: tức Duyên niệm xứ, một trong Tam chủng niệm xứ. Tam chủng niệm xứ gồm có: Tánh niệm xứ (do rõ được lý không và vô sinh nên trừ dứt mọi phiền não, tức là được trí huệ giải thoát); Cộng niệm xứ (do nơi Tánh niệm xứ mà đạt được đầy đủ Ba minh và Sáu thần thông, tức là được giải thoát đầy đủ); và Duyên niệm xứ (do nơi Ba tạng kinh điển, Thập nhị phần giáo, nghĩa là tất cả giáo pháp của Phật truyền dạy, mà đạt được sự giác ngộ, tức là thành bậc Đại A-la-hán).

Bạn tốt là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì việc gìn giữ hết thảy công đức đều được thành tựu.

Phát tâm là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì thành tựu được sự chân thật không lừa dối chúng sinh.

Dụng ý là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì vượt ra khỏi hết thảy các pháp.

Chuyên tâm là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì giúp tăng trưởng lợi ích cho các pháp lành.

Tư duy thiện pháp là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì tùy theo chỗ được nghe chánh pháp mà được thành tựu.

Nhiếp thủ là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì thành tựu việc giáo hóa chúng sinh.

Hộ trì chánh pháp là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì khiến cho hạt giống Tam bảo truyền mãi không dứt.

Nguyện lành là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì thành tựu được cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh.

Phương tiện là pháp môn hỗ trợ Bồ-đề, vì được mau chóng thành tựu trí hiểu biết tất cả.

“Thiện nam tử! Như vậy gọi là các pháp môn thanh tịnh hỗ trợ Bồ-đề của hàng Bồ Tát.’

“Thiện nam tử! Bấy giờ đức Như Lai Bảo Tạng quay nhìn khắp đại chúng Bồ Tát, rồi bảo Bồ Tát Đại Bi: ‘Này Đại Bi! Thế nào là Bồ Tát dùng sự không sợ sệt để trang nghiêm tốt đẹp, đầy đủ đức nhẫn?

“Thiện nam tử! Nếu Bồ Tát thấy được ý nghĩa rốt ráo thì đạt được sự tinh tấn, không ngu si, không đắm chấp trong Ba cõi. Nếu không đắm chấp trong Ba cõi thì gọi đó là tam- muội, là pháp không sợ sệt của bậc sa-môn. Như đưa tay vào khoảng không chẳng có gì để nắm bắt, lại quán xét các pháp thấy không thật có tướng mạo.

Đại Bi! Như vậy gọi là Đại Bồ Tát dùng sự không sợ sệt để trang nghiêm tốt đẹp.

“Thiện nam tử! Thế nào là Bồ Tát đầy đủ đức nhẫn? Vị Bồ Tát như vậy trong lúc trụ nơi các pháp không thấy có vô số tướng mạo của các pháp nhiều như những hạt bụi nhỏ; thực hành quán xét theo cả hai chiều thuận nghịch, đối với các pháp, hiểu rõ được ý nghĩa không có quả báo; trong khi tu tập lòng từ hiểu rõ là không có ngã, trong khi tu tập lòng bi hiểu rõ là không có chúng sinh, trong khi tu tập lòng hỷ hiểu rõ là không có mạng sống, trong khi tu tập lòng xả hiểu rõ là không có người khác.(1)

“Tuy thực hành bố thí nhưng không thấy có vật mang ra bố thí. Tuy thực hành trì giới nhưng không thấy có tâm thanh tịnh. Tuy thực hành nhẫn nhục nhưng không thấy có chúng sinh. Tuy thực hành tinh tấn nhưng không thấy có tâm xa lìa tham dục. Tuy thực hành thiền định nhưng không thấy có tâm ác phải trừ bỏ. Tuy thực hành trí huệ nhưng không thấy tâm có chỗ thực hành.

“Tuy thực hành Bốn niệm xứ nhưng không thấy có sự tư duy. Tuy thực hành Bốn chánh cần nhưng không thấy có sự sinh diệt của tâm. Tuy thực hành Bốn như ý túc nhưng không thấy có các tâm vô lượng.(2)

“Tuy thực hành tín nhưng không thấy có tâm không chướng ngại. Tuy thực hành niệm nhưng không thấy có tâm được tùy ý tự tại. Tuy thực hành định nhưng không thấy có tâm nhập định. Tuy thực hành huệ nhưng không thấy có căn cơ trí huệ.

(1) Đây chính là dùng Bốn tâm vô lượng (từ, bi, hỷ, xả) để phá trừ Bốn tướng: ngã, nhân, chúng sinh thọ giả. Xem thêm chú giải ở trang 592.

(2) Các tâm vô lượng: tức Bốn tâm vô lượng là: từ, bi, hỷ xả.

“Tuy thực hành Năm sức nhưng không thấy có chỗ phá trừ. Tuy thực hành Bảy giác ý nhưng tâm không có sự phân biệt.

“Tuy thực hành Tám chánh đạo nhưng không thấy có các pháp. Tuy thực hành định nghiệp nhưng không thấy có sự tịch tĩnh của tâm. Tuy thực hành huệ nghiệp nhưng không thấy có chỗ làm của tâm. Tuy thực hành Bốn thánh đế nhưng không thấy có sự thông đạt tướng của pháp.

“Tuy tu tập niệm Phật nhưng không thấy có vô lượng các tâm hành.(1) Tuy tu tập niệm Pháp nhưng tâm bình đẳng đối với pháp giới. Tuy tu niệm Tăng nhưng tâm không có chỗ trụ, nhờ giáo hóa chúng sinh mà tâm được thanh tịnh.

“Tuy nắm giữ chánh pháp nhưng đối với các pháp giới tâm không có sự phân biệt. Tuy tu tập tịnh độ nhưng tâm bình đẳng như hư không. Tuy tu tập các tướng tốt đẹp nhưng trong tâm không có các tướng.

“Tuy đạt được sự nhẫn nhục nhưng tâm không có chỗ nắm giữ. Tuy trụ ở địa vị không còn thối chuyển nhưng thường tự mình chẳng thấy có sự thối chuyển hay không thối chuyển. Tuy thực hành dựng lập đạo tràng nhưng rõ biết trong Ba cõi không có tướng nào khác. Tuy phá hoại các ma nhưng chính là làm lợi ích cho vô lượng chúng sinh.

(1)Tâm hành: Các trạng thái thay đổi khác nhau của tâm gọi là tâm hành. Do tâm không ngừng biến chuyển trong từng sát-na, duyên theo trần cảnh, nên có vô lượng tâm hành.

“Tuy thực hành đạo Bồ-đề nhưng quán các pháp đều là không, không có tâm Bồ-đề. Tuy chuyển bánh xe pháp nhưng đối với hết thảy các pháp không có sự xoay chuyển hay trở về. Tuy cũng thị hiện nhập cảnh giới Niết-bàn rốt ráo nhưng trong tâm đối với chốn sinh tử luôn bình đẳng không thấy có khác biệt.

“Như vậy gọi là Bồ Tát được đầy đủ đức nhẫn.”

Khi đức Phật Thích-ca  Mâu-ni  thuyết  pháp  như  vậy, có sáu mươi bốn ức Đại Bồ Tát từ khắp mười phương hiện đến núi Kỳ-xà-quật, nơi Phật đang thuyết pháp, lắng nghe nhân duyên căn bản của các phép tam-muội và những pháp môn thanh tịnh hỗ trợ Bồ-đề. Nghe pháp như vậy rồi liền được Vô sinh nhẫn.(1)

Khi ấy, đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo đại chúng: “Các ông nên biết, đức Như Lai Bảo Tạng vào thuở xa xưa ấy khi thuyết giảng pháp này có vô số Đại Bồ Tát nhiều như số cát của bốn mươi tám con sông Hằng đạt được Vô sinh nhẫn; có vô số Đại Bồ Tát nhiều như số hạt bụi nhỏ trong Bốn cõi thiên hạ được trụ yên nơi địa vị không còn thối chuyển; có vô số Đại Bồ Tát nhiều như số cát của một con sông Hằng đạt được nhân duyên căn bản của các phép tam-muội và các pháp môn thanh tịnh hỗ trợ Bồ-đề.

“Thiện nam tử! Vào lúc ấy, Bồ Tát Đại Bi nghe được pháp này rồi, tâm sinh hoan hỷ, liền được thay đổi hình thể như chàng thanh niên hai mươi tuổi. Từ đó luôn theo hầu kề cận bên đức Như Lai như bóng với hình.

“Thiện nam tử! Bấy giờ, Chuyển luân Thánh vương cùng với một ngàn người con, tám mươi bốn ngàn vị tiểu vương, chín mươi hai ức nhân dân thảy đều xuất gia, phụng trì cấm giới, nghe nhiều học rộng, tu tập phép tam-muội Nhẫn nhục, luôn chuyên cần tinh tấn.

(1) Vô sinh nhẫn: tức Vô sinh pháp nhẫn. Xem chú giải ở trang 93.

“Thiện nam tử! Khi ấy Đại Bồ Tát Đại Bi dần dần theo Phật học hỏi, lãnh thọ đủ tám mươi bốn ngàn pháp môn của hàng Thanh văn, chín mươi ngàn pháp môn của hàng Duyên giác, hết thảy đều thọ trì, tụng đọc thông suốt, ứng đối nhanh nhạy.

“Đối với giáo pháp Đại thừa, trong thân niệm xứ gồm hết có mười vạn pháp môn, trong thọ niệm xứ gồm hết có mười vạn pháp môn, trong tâm niệm xứ gồm hết có mười vạn pháp môn, trong pháp niệm xứ gồm hết có mười vạn pháp môn, hết thảy đều thọ trì, tụng đọc thông suốt, ứng đối nhanh nhạy.

“Trong Mười tám giới(1) gồm hết có mười vạn pháp môn, trong Mười hai nhập(2) gồm hết có mười vạn pháp môn, trong việc dứt trừ tham dục gồm hết có mười vạn pháp môn, trong việc dứt trừ sân hận gồm hết có mười vạn pháp môn, trong việc dứt trừ ngu si gồm hết có mười vạn pháp môn, phép tam-muội giải thoát gồm hết có mười vạn pháp môn, Năm sức, Bốn pháp không sợ sệt, Mười tám pháp chẳng  chung cùng(3) gồm hết có mười vạn pháp môn. Tất cả các pháp như vậy, gồm hết có mười ức pháp môn, hết thảy đều thọ trì, tụng đọc thông suốt, ứng đối nhanh nhạy.

“Thiện nam tử! Về sau, đức Phật Bảo Tạng nhập Niết- bàn. Khi ấy, Đại Bồ Tát Đại Bi dùng vô số đủ mọi loại hoa, hương bột, hương phết, cờ lọng quý báu, trân bảo, âm nhạc dâng lên cúng dường. Lại dùng đủ mọi thứ gỗ thơm chất lại thành đống, hỏa táng thân Như Lai rồi thu nhặt xá-lợi, dựng tháp bằng bảy báu cao năm do-tuần, hai chiều ngang dọc đều rộng đủ một do-tuần, trong vòng bảy ngày dùng vô số đủ mọi thứ hương hoa, âm nhạc, cờ lọng quý báu dâng lên cúng dường.

(1) Mười tám giới (Thập bát giới): Xem chú giải ở trang 222.

(2) Mười hai nhập (Thập nhị nhập): Xem chú giải ở trang 222.

(3) Mười tám pháp chẳng chung cùng: tức Thập bát bất cộng pháp, xem chú giải ở trang 796.

“Vào lúc ấy, Bồ Tát Đại Bi lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh được trụ yên trong giáo pháp Ba thừa.

“Thiện nam tử! Bồ Tát Đại Bi trải qua bảy ngày như vậy rồi, cùng với tám mươi bốn ngàn người cùng lúc xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà-sa thô xấu,(1) trong thời gian sau khi đức Phật Bảo Tạng đã nhập Niết-bàn, tùy thuận tâm chúng sinh mà thổi bùng lên ngọn lửa chánh pháp trong suốt mười ngàn năm, lại khiến cho vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh đều được trụ yên trong giáo pháp Ba thừa cùng với Ba quy y, Năm giới, Tám trai giới, Mười giới sa-di, cho đến tuần tự được Cụ túc giới(2) của bậc đại tăng đủ hạnh thanh tịnh. Lại khuyên dạy vô lượng trăm ngàn vạn ức chúng sinh, giúp cho được trụ yên trong các phép thần thông phương tiện, Bốn hạnh vô lượng,(3) dạy họ quán xét Năm ấm như bọn giặc thù, quán xét các nhập như xóm làng vắng vẻ không người ở, quán xét các pháp hữu vi đều do nhân duyên sinh.

(1) Áo cà-sa thô xấu: Nguyên văn chữ Hán là “nhiễm cà-sa”, nghĩa là áo cà-sa nhuộm màu. Tuy nhiên, ý nghĩa của việc nhuộm vải ở đây không phải để cho có màu đẹp, mà cần hiểu là nhuộm cho xấu đi, cho mất đi màu vải đẹp vốn có trước đó. Vì mục đích của việc nhuộm áo là như vậy, nên chúng tôi tạm dịch là áo thô xấu.

(2) Cụ túc giới: cũng gọi là Đại giới, tức là giới luật đầy đủ của vị tỳ-kheo, gồm 250 giới.

(3) Bốn hạnh vô lượng: tức là tu tập Bốn tâm vô lượng, gồm từ, bi, hỷ xả.

Bồ Tát Đại Bi khuyên dạy chúng sinh, khiến cho được chỗ thấy biết chân thật, quán xét hết thảy các pháp đều như hình trong gương, như hơi nắng nóng,(1) như mặt trăng dưới nước;(2) đối với các pháp đều rõ biết không có ngã, không có sinh, không có diệt, cảnh giới tịch tĩnh vi diệu bậc nhất là Niết-bàn.

Bồ Tát Đại Bi lại khiến cho vô lượng vô biên chúng sinh được trụ yên trong Tám thánh đạo. Làm được những việc lợi ích lớn lao như vậy rồi sau đó mạng chung. Ngay khi ấy lại có vô lượng vô biên trăm ngàn người dùng đủ mọi thứ dâng lên cúng dường xá-lợi của tỳ-kheo Đại Bi. Sự cúng dường ấy được thực hiện đúng theo nghi thức dành cho vị Chuyển luân Thánh vương. Cho đến mọi sự cúng dường của tất cả đại chúng đối với xá-lợi của ngài Đại Bi cũng được thực hiện giống như vậy.

“Vào ngày tỳ-kheo Đại Bi mạng chung, chánh pháp của đức Như Lai Bảo Tạng cũng cùng lúc diệt mất. Các vị  Bồ Tát ở cõi ấy tùy theo bản nguyện mà sinh về cõi Phật, hoặc sinh cõi trời Đâu-suất, hoặc sinh làm người, làm các loài rồng, dạ-xoa, a-tu-la, hoặc sinh làm đủ mọi loài súc sinh.

“Thiện nam tử! Sau khi tỳ-kheo Đại Bi mạng chung, do bản nguyện nên sinh về thế giới Hoan Lạc ở phương nam, cách đây mười ngàn cõi Phật. Ở thế giới ấy, nhân dân có tuổi thọ là tám mươi tuổi, gồm đủ hết thảy mọi điều ác căn bản, ưa thích làm việc giết hại, trụ yên trong các điều ác, đối với chúng sinh không có lòng từ bi, bất hiếu với cha mẹ, cho đến chẳng hề sợ sệt quả báo đời sau.

(1) Như hơi nắng nóng: Xem chú giải ở trang 906.

(2) Mặt trăng dưới nước: tức là hình chiếu của mặt trăng trên trời mà chúng ta thấy được khi nhìn xuống mặt nước tĩnh lặng.

Tỳ-kheo Đại Bi do bản nguyện nên sinh vào một gia đình chiên-đà-la(1) ở thế giới ấy, thân thể cao lớn đẹp đẽ, sức lực mạnh mẽ, oai dũng hơn người, biện tài nhanh nhạy, ứng đối lưu loát. Hết thảy mọi việc đều hơn người.

(1) Chiên-đà-la: hạng người hạ tiện, thường chuyên sống bằng nghề giết mổ súc vật (đồ tể), lấy nghiệp giết hại để sinh sống. Trong xã hội Ấn Độ xưa, hạng người này bị khinh miệt, phải sống riêng biệt trong một khu vực cách ly với những người thuộc giai cấp khác. Mỗi khi có việc đến chỗ đông người, họ phải đánh mõ gỗ báo hiệu cho những người khác biết mà tránh đi để không gặp họ, vì sợ làm ô uế người khác.

“Ngài dùng sức dũng mãnh để khống chế hết thảy mọi người rồi nói rằng: ‘Nếu như các người chịu thọ trì giới không trộm cắp, dứt bỏ lìa xa hết thảy mọi tà kiến, sống theo chánh kiến, thì ta sẽ tha mạng cho các người, lại cung cấp cho tài sản và đủ các thứ cần dùng, không để cho đói thiếu. Còn nếu các người không chịu thọ giới thì nay ta sẽ giết chết tất cả các người.’

“Khi ấy, mọi người đều quỳ xuống chắp tay thưa rằng: ‘Nhân giả! Nay đã vì chúng tôi mà điều phục, dạy bảo. Chúng tôi xin thọ trì đúng như lời dạy, nguyện suốt đời này không bao giờ trộm cắp nữa. Cho đến việc lìa bỏ tà kiến sống theo chánh kiến cũng vậy.’

“Bấy giờ, vị chiên-đà-la dũng mãnh hơn người ấy lại lần lượt đi đến chỗ vua và các đại thần, nói rằng: ‘Nay tôi thiếu thốn mọi thứ tài sản, như là món ăn thức uống, thuốc men, y phục, giường ghế, hương hoa, vàng bạc, tiền của, chân châu, lưu ly, các loại ngọc quý, san hô, hổ phách, các loại trân bảo. Nếu tôi có đủ những thứ như vậy, tôi sẽ mang ra bố thí cho chúng sinh.’

“Khi ấy, vua và các vị đại thần liền lấy hết thảy các thứ tài sản và vật cần dùng như vậy, ban cho đầy đủ.

“Vị chiên-đà-la nhân nơi việc bố thí ấy liền giáo hóa, khiến cho vua và các vị đại thần đều được trụ yên nơi Mười điều lành.

“Bấy giờ, tuổi thọ của nhân dân tăng dần lên cho đến đủ năm trăm tuổi. Đức vua ấy băng hà, các đại thần đồng lòng tôn vị chiên-đà-la ấy lên nối ngôi vua, nhân đó đổi tên gọi là Công Đức Lực.

“Thiện nam tử! Đức vua Công Đức Lực cai trị nước ấy không bao lâu liền dùng sức dũng mãnh mà thu phục cai trị hai nước, rồi mở rộng dần cho đến không bao lâu đã trở thành vị Chuyển luân Thánh vương, cai trị khắp cõi Diêm- phù-đề.

“Sau đó, ngài lại dạy dỗ hết thảy chúng sinh, khiến cho trụ yên trong giới không giết hại, cho đến trụ yên trong chánh kiến. Ngài tùy theo chỗ ưa thích trong tâm chúng sinh mà khuyên dạy, khiến cho đều được trụ yên trong giáo pháp Ba thừa.

“Khi ấy, đức vua Công Đức Lực đã giáo hóa vô lượng chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề được trụ yên trong Mười điều lành cùng với giáo pháp Ba thừa rồi, liền truyền rao trong khắp cõi Diêm-phù-đề rằng: ‘Nếu ai muốn cầu xin những thứ cần dùng, món ăn thức uống, cho đến muốn có được đủ các thứ trân bảo, cứ tìm đến đây ta sẽ cung cấp, bố thí cho.’

“Bấy giờ, hết thảy những người ăn xin trong khắp cõi Diêm-phù-đề nghe như vậy liền cùng nhau tụ tập đến. Đức vua Công Đức Lực liền tùy theo ý muốn của mỗi người mà cung cấp, bố thí các thứ cần dùng, khiến cho tất cả đều được thỏa mãn.

“Bấy giờ có một ni-kiền-tử(1) tên là Hôi Âm tìm đến chỗ vua nói rằng: ‘Nay nhà vua đã làm nhiều việc bố thí lớn lao để cầu đạo Vô thượng chân chánh. Những thứ tôi đang cần đến, nay đại vương nên bố thí cho tôi đầy đủ thì đời sau đại vương sẽ thắp sáng ngọn đèn chánh pháp.’

“Đức vua liền hỏi: ‘Ông cần những gì?’

“Người kia đáp: ‘Tôi trì tụng chú thuật, muốn đánh nhau với a-tu-la để giành phần thắng. Vì thế nên hôm nay mới đến cầu xin đại vương. Những thứ tôi cần là da và mắt của người còn sống.’

“Khi ấy, đức vua nghe lời ấy rồi liền suy nghĩ: ‘Nay ta đã có được thế lực vô lượng, đã được làm Chuyển luân Thánh vương, cũng đã khiến cho vô lượng chúng sinh được trụ yên trong Mười điều lành cùng với giáo pháp Ba thừa, lại cũng đã làm vô số việc bố thí lớn lao. Nay vị thiện tri thức này hẳn là muốn giúp ta dùng thân không bền chắc để đổi lấy thân bền chắc.’(2)

“Bấy giờ, đức vua liền nói: ‘Nay ông hãy sinh tâm vui mừng, ta sẽ lấy con mắt thịt phàm phu này để bố thí cho ông. Do nhân duyên này sẽ khiến cho ta trong đời vị lai được mắt huệ thanh tịnh. Ta lại vui vẻ lột da mà bố thí cho ông, do nhân duyên này sẽ khiến cho ta sau khi thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rồi được thân thể có màu vàng ròng.’(3) 

(1) Ni-kiền-tử: người tu theo phái ngoại đạo khỏa thân. Từ này cũng được dùng để chỉ chung tất cả những người xuất gia tu hành theo ngoại đạo.

(2) Dùng thân không bền chắc để đổi lấy thân bền chắc: Đây ý nói việc xả thân bố thí là nhân duyên tiến tu để sớm đạt được sự giải thoát rốt ráo, nhờ đó sẽ có được thân Phật, thường tồn không hư hoại.

(3) Thân thể có màu vàng ròng (kim sắc thân): một trong các tướng tốt của Phật, thân hình có màu vàng đẹp tỏa sáng như màu sắc của vàng ròng.

“Thiện nam tử! Khi ấy, đức vua Công Đức Lực dùng tay phải móc cả hai mắt ra, bố thí cho ni-kiền-tử, máu chảy tràn khắp trên khuôn mặt. Vua nói: ‘Chư thiên, loài rồng, quỷ thần, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la,  khẩn-na-la,  ma-hầu- la-già, loài người, loài phi nhân, hoặc đang ở trên không trung, hoặc đang ở trên mặt đất, xin tất cả hãy nghe lời ta nói. Việc bố thí của ta hôm nay đều là vì cầu đạo Bồ-đề Vô thượng, Niết-bàn thanh tịnh, vì cứu độ chúng sinh chìm ngập trong Bốn dòng nước xoáy,(1) sẽ khiến cho được trụ yên nơi cảnh giới Niết-bàn.’

“Rồi vua nói tiếp: ‘Nếu như ta chắc chắn sẽ thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu  Tam-bồ-đề,  thì  nay  tuy  làm việc bố thí như thế này cũng không dứt mạng, không đánh mất chánh niệm, không sinh lòng hối tiếc, và khiến cho chú thuật của ni-kiền-tử đây liền được thành tựu.’

“Phát nguyện như vậy rồi, vua liền nói với ni-kiền-tử: ‘Bây giờ ông có thể đến đây lột da của ta mà lấy.’

“Thiện nam tử! Khi ấy, ni-kiền-tử liền cầm dao sắc đến lột lấy da của đức vua. Sau đó bảy ngày, việc luyện chú thuật của ni-kiền-tử ấy liền được thành tựu.

“Trong bảy ngày ấy, đức vua vẫn không chết, vẫn không để mất chánh niệm, tuy phải chịu khổ não đau đớn như vậy nhưng trong lòng tuyệt nhiên không một chút hối tiếc.

“Thiện nam tử! Các ông nên biết rằng, Bồ Tát Đại Bi kia nào phải ai xa lạ, chính là tiền thân của ta trong quá khứ, ở nơi đức Phật Bảo Tạng lần đầu tiên phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Phát tâm như vậy rồi, khuyên dạy vô lượng vô biên chúng sinh hướng đến quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thiện nam tử! Đó chính là sự dũng mãnh tinh tấn trước nhất của ta.

(1) Bốn dòng nước xoáy: Xem chú giải ở trang 675.

“Bấy giờ, ta do nơi nguyện lực mà sau khi mạng chung liền sinh vào gia đình chiên-đà-la ở thế giới Hoan Lạc. Đó là sự dũng mãnh tinh tấn lần thứ hai của ta.

“Khi ta sinh ra trong gia đình chiên-đà-la, giáo hóa chúng sinh theo các pháp lành, dùng sức mạnh của mình mà dần dần đạt đến địa vị Chuyển luân Thánh vương, trừ hết mọi sự uế trược, đấu tranh giành giật trong cõi Diêm-phù-đề, khiến cho cõi này được sự tịch tĩnh, tăng thêm tuổi thọ. Đó là lần đầu tiên ta xả bỏ thân mạng, lột da, móc mắt bố thí cho chúng sinh.

“Thiện nam tử! Do nguyện lực nên khi ta mạng chung ở nơi ấy liền sinh vào một gia đình chiên-đà-la ở thế giới Hoan Hỷ, lại cũng dần dần đạt được địa vị Chuyển luân Thánh vương. Ta dùng thế lực lớn mạnh để khiến cho hết thảy chúng sinh đều trụ yên trong các pháp lành. Ở thế giới ấy, ta lại cũng trừ dứt mọi giặc thù, mọi sự đấu tranh giành giật, cho đến trừ dứt mọi sự uế trược, khiến cho chúng sinh được tăng thêm tuổi thọ. Đó là lần đầu tiên ta xả bỏ lưỡi và tai, ở nơi hết thảy những cõi thiên hạ trong Tam thiên Đại thiên thế giới ấy mà làm các việc lợi ích lớn lao.

“Do nơi nguyện lực nên ta lần lượt có những sự tu tập tinh tấn, vững chắc như vậy, lại ở nơi các cõi thế giới xấu ác có năm sự uế trược nhiều như số cát của một con sông Hằng mà làm những việc lợi ích lớn lao, giúp chúng sinh trụ yên trong các pháp lành cùng với giáo pháp Ba thừa, trừ dứt mọi giặc thù, mọi sự đấu tranh giành giật, cho đến trừ dứt mọi sự uế trược.

“Thiện nam tử! Ở tất cả những thế giới thanh tịnh phương khác, các đức Phật khi hành đạo A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề không nói lỗi của người khác, không nói những lời thô thiển, độc ác với người khác, không dùng sức mạnh làm những việc đe dọa, khiến người sợ sệt, không khuyên bảo chúng sinh theo Thanh văn thừa Duyên giác thừa. Vì thế nên các vị Phật ấy khi thành tựu trọn vẹn quả A-nậu- đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rồi liền được cõi thế giới thanh tịnh mầu nhiệm, tốt đẹp; không có tên gọi các điều tội lỗi, không có việc thọ trì giới luật; tai không nghe thấy những lời thô thiển độc ác, không có những âm thanh bất thiện; thường được nghe những âm thanh pháp, âm thanh lìa xa hết thảy mọi sự không hài lòng; đối với chúng sinh đều được tùy ý tự tại; không có những tên gọi Thanh văn Bích-chi Phật.

“Thiện nam tử! Ta trải qua số đại kiếp nhiều như số cát sông Hằng, ở nơi những cõi thế giới xấu ác nhiều như số cát sông Hằng, nơi không có Phật ra đời với đủ năm sự uế trược, dùng những lời thô ác, lấy sự đe dọa tính mạng để làm cho chúng sinh khiếp sợ, rồi sau mới nhân đó mà khuyên dạy cho họ trụ yên trong các pháp lành cùng với giáo pháp Ba thừa. Do nghiệp ấy còn lưu lại nên ta nhận lấy cõi thế giới xấu ác, hèn kém như thế này. Ta dùng âm thanh bất thiện truyền rao khắp cõi thế giới, vì thế nên nay nhận lấy những chúng sinh bất thiện đầy dẫy khắp thế giới.

“Theo như bản nguyện của ta thuyết giảng giáo pháp Ba thừa, nhận lấy cõi Phật, điều phục chúng sinh, mọi việc là như vậy. Ta đã theo đúng như lời dạy mà tinh cần tu tập, hành đạo Bồ-đề, cho nên nay được chủng tử tương tự như thế giới Phật. Do bản nguyện của ta nên ngày nay được mọi sự như vậy.

“Thiện nam tử! Nay ta sẽ nói sơ qua về chỗ thực hành Bố thí ba-la-mật của ta trong quá khứ.

“Khi ta thực hành Bố thí ba-la-mật, so với các vị Bồ Tát trong quá khứ khi hành đạo Bồ Tát không ai có thể làm được như vậy. Các vị Bồ Tát trong đời vị lai khi hành đạo Bồ Tát cũng không ai có thể làm được như vậy.

“Khi ta còn là Bồ Tát, thực hành pháp Bố thí ba-la-mật, chỉ có tám bậc thiện trượng phu trong quá khứ là có thể sánh bằng.

“Vị thứ nhất là Bồ Tát Nhất Địa Đắc, ở tại cõi nước Nhất Thiết Quá Hoạn thuộc về phương nam của cõi này, thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu  Tam-bồ-đề  hiệu  là  Phá Phiền Não Quang Minh  Như  Lai,  Ứng  cúng,  Chánh  biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Khi ấy tuổi thọ con người là một trăm tuổi, ngài ở trong cõi ấy mà thuyết pháp, sau bảy ngày thì nhập Niết-bàn.

“Vị thứ hai là Bồ Tát Tinh Tấn Tịnh, ở tại cõi nước Viêm thuộc về phương đông của cõi này, thành tựu quả A-nậu- đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề hiệu là Bách Công Đức Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Khi ấy tuổi thọ con người là một trăm tuổi, ngài ở trong cõi ấy mà thuyết pháp. Sau khi làm xong các Phật sự, vị Phật ấy trải qua số đại kiếp nhiều như số cát của một con sông Hằng mới nhập Niết-bàn Vô thượng. Xá-lợi của đức Phật ấy cho đến ngày nay vẫn còn ở nơi những thế giới không có Phật mà làm các Phật sự, cũng như ta không khác.

“Vị thứ ba là Bồ Tát Kiên Cố Hoa, đối với các phép tam- muội luôn chuyên cần thực hành tinh tấn, dùng sức mạnh lớn lao để thực hành việc bố thí. Vị ấy trong đời vị lai trải qua số đại kiếp nhiều như số cát của mười con sông Hằng, sẽ ở tại thế giới Hoan Lạc thuộc về phương bắc của cõi này thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề hiệu  là Đoạn Ái Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.

“Vị thứ tư là Bồ Tát Huệ Sí Nhiếp Thủ Hoan Hỷ, trải qua một đại kiếp nữa sẽ ở tại thế giới Khả Uý thuộc về phương tây của cõi này, khi tuổi thọ con người là một trăm tuổi, thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề hiệu là Nhật Tạng Quang Minh Vô Cấu Tôn Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn.

“Hiện nay ở trước mặt ta đây có hai vị Bồ Tát nữa, một vị tên là Nhật Quang, một vị tên là Hỷ Tý.

“Trong đời vị lai, trải qua vô lượng vô biên đại kiếp, về phương trên của cõi này có cõi nước Hôi Vụ, kiếp ấy tên là Đại Loạn, cõi đời xấu ác, nhiều phiền não với đủ năm sự uế trược, tuổi thọ con người là năm mươi tuổi. Do nơi bản nguyện nên Bồ Tát Nhật Quang sẽ ở nơi cõi ấy thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hiệu là Bất Tư Nghị Nhật Quang Minh Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật ấy trải qua mười năm làm đủ các việc Phật sự rồi nhập Niết-bàn. Ngay trong ngày Phật ấy nhập Niết-bàn, chánh pháp cũng diệt mất.

“Sau đó mười năm, thế giới ấy không có Phật, tuổi thọ con người giảm dần xuống chỉ còn ba mươi tuổi. Khi ấy, Bồ Tát Hỷ Tý do nơi bản nguyện nên ở nơi cõi ấy thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hiệu là Thắng Nhật Quang Minh Như Lai,  Ứng  cúng,  Chánh  biến  tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật Thế Tôn ấy cũng trải qua mười năm làm đủ các việc Phật sự rồi nhập Niết-bàn. Sau khi Phật nhập Niết-bàn, do bản nguyện của ngài nên chánh pháp trụ thế đủ bảy mươi năm.

“Bấy giờ, hai vị Bồ Tát ở trước Phật lần đầu tiên được nghe thọ ký quả  A-nậu-đa-la  Tam-miệu  Tam-bồ-đề  nên sinh tâm hoan hỷ, cúi đầu lễ kính. Do tâm hoan hỷ nên liền bay vọt lên giữa hư không, cao bằng bảy cây đa-la,(1) cùng chắp tay hướng về đức Phật, đồng thanh đọc kệ xưng tán rằng:

(1) Cây đa-la (Tārā): một loài cây mọc nhiều ở miền đông Ấn Độ, thân cây rất cao, trung bình đến khoảng bảy, tám mươi thước ( tương đương khoảng 24 – 25 mét), trái chín màu đỏ, ăn được. Cây đa-la ngoài tính chất đặc biệt là rất cao, còn có đặc điểm là khi bị chặt đứt ngang sẽ không còn sinh trưởng được nữa. Vì thế, trong kinh dùng hình ảnh cây đa-la bị chặt ngang để ví với vị tỳ-kheo phạm vào các trọng giới ba-la-di.

Hào quang đức Như Lai,

Che mờ cả nhật nguyệt.

Thường ở trong đời ác,

Phô diễn trí huệ lớn,

Mắt Điều ngự thanh tịnh,

Không một chút bợn nhơ.

Dùng luận nghị nhiệm mầu,

Khuất phục hết ngoại đạo.

Con từ vô lượng kiếp,

Tu phép định Vô tướng,

Cầu được đạo Vô thượng,

Quả bồ-đề cao trổi.

Từng cúng dường chư Phật,

Số nhiều như cát sông,

Nhưng chư Phật quá khứ,

Chưa vì con thọ ký.

Đức Thế tôn lìa dục,

Tâm đạt được giải thoát,

Ở trong đời tối tăm,

Khéo làm các Phật sự,

Vì chúng sinh lạc đường,

Thuyết giảng pháp mầu nhiệm,

Khiến cho đều ra khỏi,

Dòng sinh tử nổi trôi.

Chúng con nay phát nguyện,

Trong pháp Phật thanh tịnh,

Đạt được tâm tự tại,

Xuất gia tu chánh đạo,

Thọ trì giới Giải thoát,

Theo lời dạy mà làm,

Tâm an định theo Phật,

Như bóng luôn theo hình.

Không vì được lợi dưỡng,

Chỉ mong cầu chánh pháp.

Đã được nghe chánh pháp,

Như uống nước cam lộ,

Vì thế nên Thế Tôn,

Thọ ký cho chúng con,

Ở trong đời vị lai,

Sẽ được đạo Vô thượng.

“Thiện nam tử! Còn hai người nữa vẫn chưa phát tâm. Những người đã phát tâm rồi, người thứ nhất tên là Nhật Quang, người thứ hai tên là Hỷ Tý. Trước đó ta đã kể bốn người, thứ nhất là Địa Đắc, thứ hai là Tinh Tấn Tịnh, thứ ba là Kiên Cố Hoa, thứ tư là Huệ Sí Nhiếp Thủ Hoan Hỷ. Như vậy cả thảy có tám người. Sáu vị Bồ Tát nói trên đều là do ta khuyên dạy ban đầu khiến cho phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.

“Thiện nam tử! Nay ông hãy lắng nghe cho kỹ nhân duyên trước đây trong đời quá khứ đã trải qua vô lượng a-tăng-kỳ kiếp. Vào lúc ấy, thế giới này có tên là Vô Cấu Tu-di, tuổi thọ con người là một trăm tuổi, có đức Phật ra đời hiệu là Hương Liên Hoa. Sau khi Phật ấy nhập Niết-bàn, vào thời tượng pháp,(1) ta làm vị Chuyển luân Thánh vương có thế lực lớn lao ở cõi Diêm-phù-đề, hiệu là Nan Trở Hoại, có đủ một ngàn người con, ta đều khuyên dạy khiến cho phát tâm A-nậu- đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Về sau, trong thời tượng pháp ấy, tất cả đều xuất gia tu đạo, thổi bùng lên mạnh mẽ ngọn lửa Phật pháp. Chỉ trừ có sáu người con không chịu xuất gia, phát tâm Bồ-đề.

(1) Tượng pháp: Xem chú giải ở trang 804.

“Khi ấy, ta nhiều lần theo hỏi sáu người con ấy: ‘Nay các con còn mong cầu điều gì mà không phát tâm Bồ-đề, xuất gia tu đạo?’

“Bấy giờ, sáu người con ấy đều nói: ‘Thật không nên xuất gia. Vì sao vậy? Nếu ở trong đời tượng pháp mạt thế mà xuất gia thì không thể thành tựu việc giữ theo giới luật, lại lìa xa bảy món tài bảo của bậc thánh.(1)  Do không giữ gìn giới luật nên phải ngập chìm trong bùn nhơ sinh tử, đọa vào ba đường ác,(2) không thể được sinh lên các cõi trời, cõi người. Do nhân duyên ấy, chúng con không thể xuất gia tu đạo.’

“Thiện nam tử! Ta lại hỏi tiếp rằng: ‘Các con do đâu mà chẳng phát tâm Bồ-đề?’

“Sáu người con ấy đáp: ‘Nếu cha có thể ban cho chúng con cõi Diêm-phù-đề này, thì sau đó chúng con sẽ phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.’

“Thiện nam tử! Ta nghe các con nói như thế thì sinh tâm hoan hỷ, tự nghĩ rằng: ‘Nay ta đã giáo hóa cho người trong cõi Diêm-phù-đề, khiến cho thọ nhận Ba quy y, thọ nhận Tám trai giới, trụ yên trong giáo pháp Ba thừa. Nay ta sẽ phân chia cõi Diêm-phù-đề này thành sáu phần, ban cho sáu đứa con này, khiến cho chúng phát tâm cầu đạo Vô thượng. Sau đó ta sẽ xuất gia tu đạo.’

(1) Tức Bảy thánh tài: Xem chú giải ở trang 447.

(2) Ba đường ác: Xem chú giải ở trang 94.

“Nghĩ như vậy rồi, ta liền phân chia cõi Diêm-phù-đề ra thành sáu phần, ban cho các con, sau đó ta liền xuất gia.

“Bấy giờ, sáu vị vua mới đều hung ác bạo ngược, chẳng ai chịu nhường ai, xâm lấn lẫn nhau, gây ra nạn đấu tranh giành giật, gông cùm trói buộc.

“Khi ấy, khắp nơi trong cõi Diêm-phù-đề, lúa thóc mất mùa chẳng có thu hoạch, nhân dân đói khổ, mưa gió nghịch mùa, cây cối khô héo không sinh hoa quả, cỏ thuốc cũng không mọc. Nhân dân, các loài chim chóc, thú vật thảy đều đói khổ, thân thể gầy khô nóng nảy, cháy phừng lên như ngọn lửa.

“Vào lúc ấy, ta tự nghĩ rằng: ‘Ta nay nên xả bỏ thân mình, dùng máu thịt để bố thí cho chúng sinh được no đủ.’

“Nghĩ như vậy rồi, ta liền từ bỏ nơi vắng vẻ đang tu tập mà tìm về chốn nhân gian, giữa đường gặp một hòn núi tên là Thủy Ái Hộ. Ta lên trên núi ấy phát lời đại nguyện bố thí, rồi đọc kệ rằng:

Nay ta tự bỏ,

Thân mạng hiện có,

Vì lòng đại bi,

Không cầu quả báo,

Chỉ vì lợi ích,

Chư thiên, loài người,

Nguyện làm núi thịt,

Thí cho chúng sinh.

Nay ta buông bỏ,

Thân tướng đẹp đẽ,

Chẳng cầu Đế-thích,

Thiên ma, Phạm vương,

Chỉ vì lợi ích,

Chúng sinh đời sau.

Lấy máu thịt này,

Bố thí chúng sinh.

Chư thiên, rồng, thần,

Người và phi nhân,

Ở nơi núi này,

Lắng nghe lời ta,

Vì các chúng sinh,

Phát lòng đại bi,

Tự dùng máu thịt,

Thí cho tất cả.

“Thiện nam tử! Khi ta phát lời nguyện như vậy rồi, chư thiên rúng động bất an, khắp mặt đất và các núi Tu-di, biển cả đều chấn động đủ sáu cách. Hết thảy đại chúng, chư thiên và loài người đều cảm động bật lên tiếng khóc.

“Lúc bấy giờ, ta từ trên núi Thủy Ái Hộ tự lao mình xuống. Do nguyện lực nên thân ta lập tức hóa thành ngọn núi thịt cao một do-tuần, ngang dọc hai chiều cũng một do- tuần. Nhân dân và các loài chim chóc, cầm thú đến khi ấy kéo đến ăn thịt, uống máu. Do bản nguyện nên đến nửa đêm hôm ấy thân thể ta liền phát triển cực kỳ cao lớn, cho đến cao một ngàn do-tuần, ngang dọc hai chiều cũng một ngàn do-tuần. Chung quanh lại tự nhiên sinh ra những đầu người, có đầy đủ lông, tóc, mắt, tai, mũi, miệng, môi, lưỡi.

Từ trong các đầu người ấy thảy đều phát ra tiếng nói rằng: ‘Hỡi các chúng sinh, tất cả hãy tùy ý đến đây lấy dùng, hoặc uống máu, hoặc ăn thịt, hoặc lấy những đầu, mắt, tai, mũi, môi, lưỡi, răng… các thứ, tất cả đều sẽ được no đủ, sau đó sẽ phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hoặc  phát tâm Thanh văn, tâm Bích-chi Phật.’

“Các ngươi nên biết rằng, những thứ mà chúng sinh lấy đi như vậy, thảy đều không thể hết. Khi ăn vào lại dễ tiêu, không bị chết yểu. Có những người thông minh sáng trí ăn thịt, uống máu, lấy những đầu, mắt, tai, mũi, lưỡi, rồi hoặc phát tâm theo Thanh văn thừa, Bích-chi Phật  thừa,  hoặc phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hoặc cầu sinh trong cõi trời, cõi người, được giàu có, vui vẻ.

“Do bản nguyện của ta nên thân ấy không hề tổn giảm, cho đến một vạn năm. Trong khắp cõi Diêm-phù-đề, loài người cho đến quỷ thần, chim chóc, cầm thú, hết thảy đều được đầy đủ, sung túc.

“Trong một vạn năm ấy, số mắt mà ta đã bố thí nhiều như số cát một con sông Hằng, lượng máu mà ta bố thí nhiều như nước trong bốn biển lớn, số thịt mà ta bố thí nhiều như cả ngàn núi Tu-di, số lưỡi mà ta bố thí nhiều như núi Thiết vi lớn, số tai mà ta bố thí nhiều như núi Thuần-đà-la, số mũi mà ta bố thí nhiều như núi Tỳ-phú-la, số răng mà ta bố thí nhiều như núi Kỳ-xà-quật, số da bọc thân mà ta bố thí nhiều như số đất trong Tam thiên Đại thiên thế giới.

“Thiện nam tử! Các ngươi nên biết, ta ở trong đời quá khứ ấy trải qua một vạn năm, xả bỏ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thân thể. Trong tuổi thọ của một lần sinh đã tự dùng máu thịt của mình để cung cấp, bố thí cho vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh như vậy, thảy đều khiến cho được no đủ, nhưng chẳng bao giờ có chút hối tiếc.

“Vào lúc ấy ta lại nguyện rằng: ‘Nếu như ta chắc chắn sẽ được thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, sở nguyện thành tựu, được lợi ích bản thân, thì nay cũng giống như ta đã ở nơi một cõi Diêm-phù-đề này trong một vạn năm tự dùng máu thịt của mình để cấp thí cho hết thảy vô lượng chúng sinh, nguyện cũng sẽ làm như vậy trong vô số lần vạn năm, nhiều như số cát của một con sông Hằng, hiện thân đầy khắp Tam thiên Đại thiên thế giới Vô Cấu Tu-di, hóa làm núi máu thịt ở khắp mỗi một cõi thiên hạ, trong một vạn năm tự dùng máu thịt, đầu, mắt, tai… để cung cấp, bố thí cho chúng sinh, chư thiên, rồng, quỷ thần, người và loài phi nhân, cùng hết thảy các loài súc sinh, hoặc ở giữa hư không, hoặc ở trên mặt đất, cho đến loài ngạ quỷ, tất cả đều khiến cho được no đủ, sau đó sẽ khuyên dạy, giáo hóa cho được trụ yên trong giáo pháp Ba thừa.

“Nếu như đã hóa hiện được khắp cõi Phật thế giới này, giúp cho hết thảy chúng sinh được đầy đủ rồi, lại sẽ hóa hiện đến các cõi thế giới xấu ác có đủ năm sự uế trược trong mười phương nhiều như số cát của một con sông Hằng, lại cũng cung cấp bố thí máu thịt, đầu, mắt, tai… cho hết thảy chúng sinh, khiến cho tất cả đều được đầy đủ. Bố thí như vậy trải qua số đại kiếp nhiều như số cát của một con sông Hằng, luôn vì chúng sinh mà tự xả bỏ thân mạng để bố thí.

“Nếu như sở nguyện của ta không thành tựu, không được lợi ích bản thân, như vậy tức là đã dối gạt vô lượng vô biên chư Phật Thế Tôn đang vì các chúng sinh mà chuyển bánh xe chánh pháp trong các thế giới mười phương. Như vậy chắc chắn không thể thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, phải ở trong sinh tử, mãi mãi không được nghe những âm thanh Phật, âm thanh Pháp, âm thanh tỳ-kheo, âm thanh ba-la-mật, âm thanh sức không sợ sệt, cho đến không được nghe âm thanh của hết thảy các căn lành. Nếu ta không thể thành tựu việc xả thân bố thí đầy đủ cho các chúng sinh, sẽ thường phải đọa vào địa ngục A-tỳ.

“Thiện nam tử! Ta vào đời quá khứ đã thành tựu được hết thảy sở nguyện như thế, ở nơi mỗi một cõi thiên hạ đều xả bỏ thân mạng, dùng máu thịt cung cấp bố thí chúng sinh, khiến cho tất cả đều được no đủ. Lần lượt như vậy, đi khắp các cõi Phật thế giới trong mười phương nhiều như số cát sông Hằng, luôn xả bỏ thân mạng, dùng máu thịt cung cấp bố thí chúng sinh, khiến cho tất cả đều được no đủ.

“Thiện nam tử! Các ông nên biết, ta vào lúc ấy vì thực hành pháp Bố thí ba-la-mật mà xả thân bố thí như vậy, chỉ riêng số mắt mà ta đã lần lượt bố thí, nếu gom hết lại sẽ đầy khắp cõi Diêm-phù-đề này và cao lên đến tận cõi trời Đao- lợi.(1)

(1)Cõi trờii Đao- lợii: Xem chú giải ở trang 78.

“Thiện nam tử! Đó là Như Lai chỉ nói sơ qua về việc xả bỏ thân mạng để thực hành pháp Bố thí ba-la-mật.

“Lại nữa, thiện nam tử! Trải qua vô lượng vô biên a-tăng- kỳ kiếp như vậy, khi đó thế giới này đổi tên là Nguyệt Lôi, cũng là cõi thế giới xấu ác có năm sự uế trược. Vào lúc ấy ta làm vị Chuyển luân Thánh vương, cai trị cõi Diêm-phù-đề, hiệu là Đăng Quang Minh, lại cũng dạy bảo vô lượng vô biên a-tăng-kỳ nhân dân, khiến cho được trụ yên trong các pháp lành, làm đủ các việc lợi ích như vào thời tượng pháp của đức Phật Hương Liên Hoa đã nói ở trước.

“Làm xong các việc như vậy rồi, một hôm ta dạo chơi ở chốn rừng cây, xem xét đất đai, thấy có một người bị bắt trói, liền hỏi: ‘Người ấy phạm tội gì vậy?’

“Quan đại thần tâu lên rằng: ‘Tất cả những người làm ruộng khi thu hoạch lúa thóc đều phải chia làm sáu phần, lấy một phần nộp vào của công. Người này không tuân theo phép vua, không chịu nộp đủ nên bị bắt trói.’

“Khi ấy, ta truyền lệnh thả người ấy ra, dạy rằng: ‘Từ nay về sau không nên cưỡng ép lấy của người ta như thế.’

“Quan đại thần tâu rằng: ‘Trong những người dân đây, chẳng có ai sinh lòng vui vẻ theo đúng phép mà giao nộp lúa thóc. Nay hết thảy mọi thứ cần dùng như món ăn, thức uống… cho các vị vương tử, hậu cung, quyến thuộc… của vua, đều là do cưỡng ép người dân nộp lên mới có. Không một ai có lòng trong sạch tự giao nộp cả!’

“Ta nghe như vậy rồi, trong lòng hết sức buồn rầu, liền tự suy nghĩ rằng: ‘Cõi Diêm-phù-đề này ta nên giao lại cho ai?’

“Lúc ấy, ta có năm trăm người con trai, trước đó đều đã dạy bảo cho phát tâm cầu đạo Vô thượng. Ta lại nghĩ rằng: ‘Nên phân chia cõi này ra thành năm trăm phần, giao lại cho các con. Còn ta nên xuất gia tìm đến nơi thanh tịnh vắng vẻ, tu tập các phép tiên, học theo Phạm hạnh thanh tịnh.’

“Nghĩ như vậy rồi, ta liền phân chia cõi nước ra làm năm trăm phần, chia đều cho các con, rồi lập tức xuất gia, tìm đến bờ biển phía nam, trong khu rừng cây Uất-đầu-ma rậm rạp, ăn trái cây rừng mà sống, dần dần tu học, đạt được năm phép thần thông.

“Thiện nam tử! Khi ấy, trong cõi Diêm-phù-đề có năm trăm người thương nhân đi ra biển cả, muốn tìm lấy trân bảo. Người dẫn đầu đoàn thương nhân ấy tên là Mãn Nguyệt. Người ấy do đời trước đã tạo nhiều nhân duyên phước đức nên được thành tựu đúng như sở nguyện, tìm đến một bãi có đầy trân bảo. Bọn họ lấy rất nhiều đủ mọi thứ trân bảo rồi lập tức lên đường trở lại cõi Diêm-phù-đề.

“Khi ấy, vị thần biển lớn tiếng khóc lóc, lại có nhiều con rồng sinh lòng tức giận muốn làm hại các thương nhân ấy. Có một vị Long vương tên là Mã Kiên, vốn là một vị Đại Bồ Tát do bản nguyện nên sinh trong loài rồng. Vị ấy khởi tâm từ bi, cứu giúp bảo vệ cho các thương nhân, khiến cho được an ổn vượt qua biển lớn, vào được trong bờ. Khi ấy vị Long vương kia mới quay trở về chỗ ở.

“Bấy giờ lại có một quỷ la-sát rất ác độc, bám theo các thương nhân như bóng với hình, muốn làm hại họ. Quỷ la- sát ác độc này ngay trong ngày hôm ấy nổi lên một cơn gió độc rất hung bạo. Khi đó, các thương nhân đều tối tăm mù mịt, lạc mất đường đi, hết sức sợ hãi, cùng cất tiếng khóc lóc vang rền, kêu la khẩn cầu chư Thiên Ma-hê-thủ-la, thần nước, thần đất, thần lửa, thần gió; lại gọi tên cha mẹ, vợ con, quyến thuộc… cầu xin cứu nạn.

“Thiện nam tử! Vào lúc ấy ta dùng thiên nhĩ thanh tịnh nghe được những âm thanh ấy, liền tìm đến nơi đó, dùng lời êm dịu mà an ủi, vỗ về: ‘Các ông chớ nên lo sợ, ta sẽ chỉ đường cho các ông, giúp cho các ông được an ổn trở về cõi Diêm-phù-đề.’

“Thiện nam tử! Khi ấy ta dùng vải trắng buộc quanh cánh tay, tẩm dầu vào rồi đốt lên làm đuốc, nói ra lời chân thật rằng: ‘Ta trước đã ở nơi rừng Uất-đầu-ma trong ba mươi năm, chuyên cần tinh tấn tu hành Bốn tâm vô lượng, vì các chúng sinh mà ăn trái cây rừng để sống, khuyên dạy giáo hóa cho tám mươi bốn ngàn các loài rồng, dạ-xoa, quỷ thần… đều được địa vị không còn thối chuyển đối với quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Do nơi nhân duyên căn lành ấy, nay đốt cánh tay này để dẫn đường cho các thương nhân được an ổn trở về trong cõi Diêm-phù-đề.’ Đốt cánh tay như vậy trong bảy ngày bảy đêm, các thương nhân ấy liền an ổn trở về được cõi Diêm-phù-đề.

“Thiện nam tử! Vào lúc ấy ta lại phát nguyện rằng: ‘Nếu như cõi Diêm-phù-đề này không có các thứ trân bảo, và nếu như ta chắc chắn sẽ thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam- miệu Tam-bồ-đề, được lợi ích bản thân, thì nay ta sẽ làm vị thương chủ, ở nơi mỗi cõi thiên hạ mưa xuống bảy lần châu báu. Ta lại vào biển cả lấy hạt châu như ý, rồi ở nơi mỗi cõi thiên hạ mưa xuống đủ mọi thứ của báu. Cứ như vậy, lần lượt mưa xuống các thứ trân bảo trong khắp cả thế giới này, cho đến trong vô lượng vô biên a-tăng-kỳ thế giới khắp mười phương cũng đều như vậy.’

“Thiện nam tử! Trong thời quá khứ ấy, những điều phát nguyện của ta thảy đều được thành tựu, trải qua số đại kiếp nhiều như số cát sông Hằng, ta thường làm vị Vô thượng Tát-bạc,(1) trải qua số kiếp xấu ác với năm sự uế trược nhiều như số cát sông Hằng thường mưa xuống đủ mọi thứ trân bảo. Mỗi một ngày đều mưa xuống như thế bảy lần. Làm lợi ích như vậy cho vô lượng chúng sinh, khiến cho được sung túc, thỏa mãn với các thứ trân bảo rồi, sau đó mới khuyên dạy, giáo hóa cho trụ yên trong giáo pháp Ba thừa.

“Thiện nam tử! Các ông nên biết, đó là Như Lai xả bỏ các thứ trân bảo quý báu để được nhân duyên căn lành.(2)

“Lại nữa, thiện nam tử! Như vậy trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, cõi Phật này chuyển tên là Võng, kiếp ấy tên là Tri Cụ Túc. Thế giới khi ấy có đủ năm sự uế trược, tuổi thọ của nhân dân là năm vạn năm. Do bản nguyện nên ta sinh vào một gia đình bà-la-môn trong cõi Diêm-phù- đề, tên là Tu Hương, tụng đọc kinh sách xiển-đà của ngoại đạo.(3)

“Vào thời ấy, chúng sinh phần nhiều đắm chấp thường kiến,(4) đấu tranh giành giật lẫn nhau, xem nhau như giặc thù. Khi ấy ta dùng sức mạnh và thế lực, vì chúng sinh thuyết dạy rằng năm ấm(5) như kẻ oán thù, rằng:

(1) Tát-bạc: phiên âm từ tiếng Phạn là sabhā, chỉ sự hội họp đông người, nên Vô thượng Tát-bạc ở đây chỉ cho người đứng đầu, người có cương vị cao nhất trong tập thể, trong hội chúng.

(2) Các thứ trân bảo tuy quý báu nhưng vẫn thuộc về hình tướng hữu vi, đều là giả tạm. Vì thế, đức Như Lai dùng chúng để tạo nhân duyên trồng các căn lành có giá trị chân thật, cao quý hơn.

(3) Kinh sách Xiển-đà của ngoại đạo: chỉ luận Xiển-đà, một trong sáu bộ luận của ngoại đạo, thuộc hệ kinh luận Phệ-đà của Ấn Độ thời cổ.

(4) Thường kiến: quan điểm cho rằng mọi sự vật trên đời đều thường tồn.

(5) Năm ấm: Xem chú giải ở trang 327.

Mười hai nhập(1) như xóm làng vắng vẻ không người, rằng tánh thật của Mười hai nhân duyên(2)  là sinh diệt không ngừng, chỉ bày phân biệt pháp a-na-ba-na(3) cho chúng sinh tu học.

(1) Mười hai nhập: Xem chú giải ở trang 222.

(2) Mười hai nhân duyên (Thập nhị nhân duyên): Xem chú giải trang 66.

(3) Pháp a-na-ba-na: phiên âm từ tiếng Phạn là Ānāpāna, tức là phép quán sổ tức, theo dõi hơi thở để định tâm, từ đó mới thể nhập vào các cảnh giới thiền định.

“Rồi ta lại dạy chúng sinh rằng: ‘Nay các ngươi nên phát tâm Bồ-đề Vô thượng, khi làm được những việc thiện nên hồi hướng cầu quả vị Bồ-đề.’

“Vào lúc ấy, ta tự nhiên có được năm phép thần thông như các thần tiên. Khi đó lại có vô số người theo học với ta nên cũng đều được năm phép thần thông.

“Lại có vô lượng vô biên chúng sinh lìa xa những sự đấu tranh giành giật, dứt bỏ mọi thù oán, xuất gia vào núi, ăn toàn các loại trái, hạt cây rừng mà sống, ngày đêm tu tập Bốn tâm vô lượng.

“Vào lúc kiếp ấy sắp dứt, những chúng sinh như vậy phân chia nhau đi khắp nơi trong cõi Diêm-phù-đề để giáo hóa chúng sinh, khiến cho đều lìa khỏi sự đấu tranh, dứt bỏ oán thù, đạt đến chỗ vắng lặng yên tĩnh. Hoặc có những nạn lụt, gió bão, mưa độc, thảy đều khiến cho dứt mất. Đất đai khi ấy trở nên bằng phẳng, mềm mại, mùa màng tươi tốt, thức ăn ngon lành, bổ dưỡng. Nhưng vì kiếp ấy sắp dứt, nên chúng sinh lại bị đủ mọi thứ bệnh khổ đeo bám hành hạ.

“Thiện nam tử! Khi ấy ta liền suy nghĩ rằng: ‘Nay nếu ta không thể dứt trừ mọi bệnh khổ của chúng sinh, ắt ta không thể thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ- đề, không thể vì các chúng sinh dứt trừ phiền não. Nay ta phải dùng phương tiện gì để dứt trừ bệnh khổ của chúng sinh? Chỉ có cách là phải tập hợp toàn thể đại chúng, chư thiên, Phạm thiên, Bốn vị Thiên vương… cùng với các vị tiên ở cõi trời, tiên trong loài rồng, loài người, để hỏi về các phương thuốc trị bệnh, gom hết các loại cỏ thuốc và đủ mọi phép chú thuật để điều trị hết thảy các chứng bệnh.’

“Nghĩ như vậy rồi, ta liền dùng thần lực lên đến các cõi trời Đế-thích, Phạm thiên, Tứ Thiên  vương  thiên  cùng  đi đến chỗ các vị thần tiên trong loài rồng, loài người… đều nói như thế này: ‘Xin mời tất cả chư vị cùng đến hội họp nơi núi Tỳ-đà.’

“Bấy giờ, hết thảy đại chúng nghe lời ta mời thỉnh, thảy đều tập hợp đến. Khi đã tập hợp rồi, liền cùng nhau trì tụng chú thuật Tỳ-đà. Do oai lực ấy nên có thể đẩy lùi được hết thảy những quỷ thần hung ác, giúp đỡ, bảo vệ chúng sinh. Lại cùng nhau nghiên cứu các phương thuốc trị bệnh, có thể trị được hết thảy các thứ bệnh thời khí, nóng lạnh… Nhờ đó mà khiến cho vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh đều lìa khỏi mọi khổ não.

“Thiện nam tử! Khi ấy ta lại phát nguyện rằng: ‘Nếu ta đã vì vô lượng chúng sinh trong một cõi thiên hạ này mà chiếu soi ánh sáng trí huệ, khiến cho được trụ yên trong giáo pháp Ba thừa, đóng chặt cửa vào ba đường ác,(1) mở rộng đường lên hai cõi trời người,(2) dứt trừ các bệnh khổ, khiến cho được yên vui. Vậy nay ta sẽ lần lượt vì vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh mà chiếu soi ánh sáng trí huệ, khiến cho được trụ yên trong giáo pháp Ba thừa, đóng chặt cửa vào ba đường ác, mở rộng đường lên hai cõi trời người, dứt trừ các bệnh khổ, khiến cho được yên vui. Do quả báo nhân duyên của căn lành này, sẽ khiến cho sở nguyện của ta đều được thành tựu, được lợi ích bản thân.

(1) Đóng chặt cửa vào Ba đường ác: Vì dạy bảo chúng sinh không làm các điều ác, không tạo các nghiệp ác nên không phải sinh vào Ba đường ác: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh.

(2) Mở rộng đường lên hai cõi trời người: Vì dạy bảo chúng sinh tu theo Mười điều lành, tạo nghiệp lành nên được sinh lên hai cõi trời, người.

“Cũng như ta đã vì vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh trong một cõi thiên hạ này mà đóng cửa các đường ác, mở đường lên hai cõi trời người, vì những người bệnh khổ mà mời thỉnh chư thiên, rồng, thần tiên… tập hợp về núi Tỳ-đà, dùng chú thuật Tỳ-đà khiến cho vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh thảy đều được dứt trừ bệnh khổ, thụ hưởng khoái lạc; nay ta cũng sẽ làm như vậy với chúng sinh trong khắp thế giới Võng này, mang lại lợi ích cho hết thảy vô lượng chúng sinh, khiến cho đều được trụ yên trong giáo pháp Ba thừa, đóng cửa ba đường ác, mở rộng đường lên hai cõi trời người. Lại cũng vì hết thảy những người bệnh trong cõi thế giới này, thỉnh chư thiên, rồng, thần tiên… tập hợp về núi Tỳ-đà, dùng chú thuật Tỳ-đà khiến cho vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh trong cõi thế giới này thảy đều được dứt trừ bệnh khổ, thụ hưởng khoái lạc.

“Lại cũng như với cõi thế giới này, cho đến hết thảy các cõi thế giới xấu ác đủ năm sự uế trược nhiều như số cát sông Hằng ở khắp mười phương, ta cũng đều phát nguyện như vậy.

“Thiện nam tử! Khi ấy ta ở nơi thế giới Võng, cho đến hết thảy các cõi thế giới xấu ác đủ năm sự uế trược nhiều như số cát sông Hằng ở khắp mười phương, những lời phát nguyện như vậy thảy đều được thành tựu.

“Thiện nam tử! Các ông nên biết, đó là Như Lai trong khi còn là Bồ Tát đã làm tăng trưởng trí huệ, tu hành đạo Bồ Tát. Như vậy gọi là Như Lai giữ gìn hạt giống căn bản của ba nghiệp lành.(1)

 (1) Ba nghiệp: Tức thân nghiệp, khẩu nghiệp ý nghiệp. Dùng thân, miệng và ý để tạo các nghiệp lành nên gọi là Ba nghiệp lành. 

ĐÀN BA-LA-MẬT PHẨM ĐỆ NGŨ CHI TAM

Phật cáo Tịch Ý Bồ Tát: “Thiện nam tử! Kỳ hậu phục quá vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, thử giới chuyển danh Tuyển Trạch Chư Ác. Nhĩ thời đại kiếp danh Thiện Đẳng Ích, thế diệc ngũ trược.

Đông phương khứ thử ngũ thập tứ thiên hạ, bỉ Diêm- phù-đề danh Lô-bà-la. Dĩ nguyện lực cố, sanh ư bỉ trung tác Chuyển luân thánh vương, chủ tứ thiên hạ, hiệu Hư Không Tịnh, giáo chư chúng sanh an trụ thập thiện cập tam thừa trung.

Ngã ư nhĩ thời bố thí nhất thiết vô sở phân biệt. Thị thời đa hữu vô lượng khất nhi lai, tùng ngã khất chủng chủng trân bảo, kim ngân, lưu ly, pha lê, tiền hóa, thanh lưu ly châu, đại thanh lưu ly, hỏa châu ma-ni. Sở hữu trân bảo thiểu bất túc ngôn. Khất giả vô lượng.

Ngã ư thị thời tức vấn đại thần: “Như thị trân bảo tùng hà xứ sanh?”

Đại thần đáp ngôn: “Thị chư long vương chi sở thị hiện. Tuy hữu thử bảo, duy cung thánh vương, bất năng quảng cập như thị khất giả.”

Ngã ư nhĩ thời tác đại thệ nguyện: “Nhược ngã vị lai ư ngũ trược trung, hậu trọng phiền não, nhân thọ bá tuế, tất định thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, sở nguyện thành tựu, đắc kỷ lợi giả, tác đại long vương thị hiện chủng chủng trân bảo chi tạng, ư thử Tuyển Trạch Chư Ác thế giới, tại tại xứ xứ tứ thiên hạ trung, ư nhất nhất thiên hạ thất phản thọ thân, nhất nhất thân trung thị hiện vô lượng bá thiên vạn ức na-do-tha đẳng trân bảo chi tạng, nhất nhất bảo tạng tung quảng chánh đẳng nhất thiên do-tuần, các các sung mãn chủng chủng trân bảo, như thượng sở thuyết cấp thí chúng sanh. Như ngã tại thử nhất thế giới trung tinh cần dụng ý, như thị thứ đệ biến thập phương như hằng hà sa đẳng ngũ trược ác thế vô Phật quốc độ, ư nhất nhất Phật độ, nhất nhất thiên hạ, thất phản thọ thân nãi chí như thượng sở thuyết.”

Thiện nam tử! Ngã tác như thị thiện nguyện, nhĩ thời thiên nhân hữu bá thiên ức, tại hư không trung vũ chủng chủng hoa nhi tán ngã ngôn: “Thiện tai, thiện tai! Nhất Thiết Bố Thí, nhữ kim dĩ đắc như tâm sở nguyện.”

Thiện nam tử! Nhĩ thời đại chúng văn Hư Không Tịnh Vương chư thiên tác tự hiệu Nhất Thiết Thí. Văn thị sự dĩ, các các tương vị ngã đẳng kim giả ưng vãng khất cầu nan xả chi vật. Nhược năng xả giả khả đắc danh vi Nhất Thiết Bố Thí. Như kỳ bất năng, hà đắc xưng vi Nhất Thiết Thí dã?

Thị thời chư nhân các các tùng vương, khất sách hậu cung, phu nhân, nữ cập nhi tức đẳng.

Thời Chuyển luân vương văn thị sự dĩ tâm đại hoan hỷ, tùy kỳ sở sách tất giai dữ chi.

Thị thời chư nhân phục cánh tương vị ngôn: “Như thị thê tử giai thị dị xả, phi nan sự dã. Kim đương tùng vương khất thân chi tiết. Nhược năng xả giả, chân khả đắc danh Năng Xả Nhất Thiết.”

Nhĩ thời chư nhân vãng đại vương sở. Ư thị chúng trung hữu nhất khất nhi tự Thanh Quang Minh, thọ trì cẩu giới, hướng Chuyển luân vương tác như thị ngôn: “Đại vương! Nhược thị nhất thiết thí giả, duy nguyện thí ngã thử Diêm- phù-đề.”

Ngã thời văn dĩ tâm đại hoan hỷ, tầm dĩ hương thủy tiển dục kỳ nhân, linh trước nhu nhuyễn thượng diệu y phục, dĩ thủy quán đỉnh, thiệu thánh vương vị, trì Diêm-phù-đề tức dĩ thí chi.

Phục tác thị nguyện: “Như ngã dĩ thử Diêm-phù-đề thí, thị nhân duyên cố  thành  A-nậu-đa-la  Tam-miệu  Tam-bồ- đề, sở nguyện thành tựu đắc kỷ lợi giả, thị Diêm-phù-đề sở hữu nhân dân, giai đương thừa thuận phụng kính thử nhân dĩ vi vương giả. Phục linh thử nhân thọ mạng vô lượng tác Chuyển luân vương. Ngã thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề dĩ, đương dữ thọ ký nhất sanh đương đắc bổ Phật chi xứ.”

Hữu bà-la-môn danh viết Lô-chí, phục lai tùng ngã khất sách lưỡng túc. Ngã văn thị dĩ tâm sanh hoan hỷ, tức trì lợi đao tự đoạn nhị túc, trì dĩ thí chi. Thí dĩ phát nguyện: “Nguyện ngã lai thế cụ túc đương đắc vô thượng giới túc.”

Hữu bà-la-môn danh viết Hỗ, phục lai tùng ngã khất sách nhị mục. Ngã văn thị dĩ tâm sanh hoan hỷ, tức khiêu nhị mục trì dĩ dữ chi. Thí dĩ phát nguyện: “Nguyện ngã lai thế đương đắc cụ túc vô thượng ngũ nhãn.”

Vị cửu chi gian, hữu bà-la-môn danh Tịnh Kiên  Lao, phục lai tùng ngã khất sách nhị nhĩ. Ngã văn thị dĩ tâm sanh hoan hỷ, tầm tự cát nhĩ trì dĩ thí chi. Thí dĩ phát nguyện: “Nguyện ngã lai thế đương đắc cụ túc vô thượng trí nhĩ.”

Vị cửu chi gian, hữu ni-càn-tử danh Tưởng, phục lai tùng ngã khất sách nam căn. Ngã văn thị dĩ tâm sanh hoan hỷ, tầm tự cát thủ trì dĩ thí chi. Thí dĩ phát nguyện: “Nguyện ngã lai  thế  thành  A-nậu-đa-la  Tam-miệu  Tam-bồ-đề  đắc mã vương tạng tướng.

Vị cửu chi gian phục hữu nhân lai, tùng ngã khất sách thân chi huyết nhục. Ngã văn thị dĩ tâm sanh hoan hỷ tức tiện thí chi. Thí dĩ phát nguyện: “Nguyện ngã lai thế cụ túc vô thượng kim sắc chi tướng.”

Vị cửu chi gian hữu bà-la-môn danh viết Mật Vị, phục lai tùng ngã cầu sách nhị thủ. Ngã văn thị dĩ tâm sanh hoan hỷ, hữu thủ trì đao tầm đoạn tả thủ, tác như thị ngôn: “Kim thử hữu thủ bất năng tự cát, khanh tự thủ chi.” Tác thị thí dĩ phục phát nguyện ngôn: “Nguyện ngã lai thế cụ túc đương đắc vô thượng tín thủ.”

Thiện nam tử! Ngã tiệt như thị chư chi tiết dĩ, kỳ thân huyết lưu, phục tác nguyện ngôn: “Nhân thử thí cố tất định thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, sở nguyện thành tựu đắc kỷ lợi giả, kỳ dư thân phần cánh đắc thọ giả.”

Nhĩ thời phi thánh, bất tri ân nghĩa, chư tiểu vương đẳng cập chư đại thần giai tác thị ngôn: “Đốt tai ngu nhân! Như hà tự cát thân thể chi tiết, linh chư tự tại nhất đán tang diệt? Kỳ dư nhục đoàn phục hà sở trị?”

Thị thời đại thần tức trì ngã thân, tống trước thành ngoại khoáng dã trủng gian, các hoàn sở chỉ. Thời hữu vô lượng văn, manh, dăng đẳng xiệp thực ngã huyết. Hồ, lang, dã can, điêu thứu chi thuộc tất lai đạm nhục.

Ngã ư nhĩ thời mạng vị đoạn gian, tâm sanh hoan hỷ, phục tác nguyện ngôn: “Như ngã xả ư nhất thiết tự tại cập chư chi tiết, nãi chí nhất niệm bất sanh sân khuể cập hối hận tâm. Nhược ngã sở nguyện thành tựu đắc kỷ lợi giả, đương linh thử thân tác đại nhục sơn. Hữu chư ẩm huyết đạm nhục chúng sanh, tất lai chí thử tùy ý ẩm đạm.”

Tác thị nguyện dĩ, tầm hữu chúng sanh tất lai thực đạm. Bổn nguyện lực cố, kỳ thân chuyển đại cao thiên do-tuần, tung quảng chánh đẳng ngũ bá do-tuần, mãn thiên tuế trung dĩ thử huyết nhục cấp thí chúng sanh.

Ngã ư nhĩ thời sở xả thiệt căn, linh chư hổ lang, si, kiêu, điêu, thứu thực chi bão túc. Dĩ nguyện lực cố phục sanh như bổn. Giả đương tụ tập như Kỳ-xà-quật sơn. Tác thị thí dĩ, phục tác thị nguyện: “Nguyện ngã lai thế cụ túc đắc thành quảng trường thiệt tướng.”

Thiện nam tử! Ngã thời mạng chung tại Diêm-phù-đề, dĩ bổn nguyện cố sanh ư long trung, tác đại long vương danh Thị Hiện Bảo Tạng. Tức ư sanh dạ thị hiện bá thiên ức na- do-tha chủng chủng bảo tạng, tự tuyên linh ngôn: “Thị địa phần trung đa hữu bảo tạng, kỳ trung cụ túc chư trân dị vật, kim ngân nãi chí ma-ni bảo châu.”

Thị chư chúng sanh văn thị xướng dĩ, các các tự tứ thủ chư bảo vật tùy ý sở dụng. Dụng dĩ cụ túc hành thập thiện đạo phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, hoặc phát Thanh văn, Bích-chi Phật tâm.

Ngã ư nhĩ thời tại long vương trung thất phản thọ thân, thọ mạng thất vạn thất thiên ức na-do-tha bá thiên tuế, thị hiện vô lượng vô biên a-tăng-kỳ bảo tạng dữ chư chúng sanh. Nhĩ thời an chỉ vô lượng vô biên a-tăng-kỳ nhân ư tam thừa trung, khuyến linh cụ túc hành thập thiện đạo. Dĩ chủng chủng vô lượng trân bảo mãn chúng sanh dĩ, phục phát nguyện ngôn: “Nguyện ngã lai thế cụ túc đương đắc tam thập nhị tướng.”

Như thị đệ nhị thiên hạ diệc phục thất sanh tác đại long vương, nãi chí biến mãn Tuyển Trạch thế giới tại tại xứ xứ chư tứ thiên hạ, tất tác như thị vô lượng lợi ích, nãi chí thập phương vô lượng vô biên vô Phật thế giới, nhất nhất thế giới, nhất nhất thiên hạ, diệc phục thất sanh tác đại long vương, thọ mạng thất vạn thất thiên ức na-do-tha bá thiên tuế, thị hiện như thị vô lượng vô biên a-tăng-kỳ bảo tạng, diệc phục như thị.

Thiện nam tử! Nhữ kim đương tri thị vị Như Lai vi Bồ Tát thời thâm trọng tinh tấn cầu tam thập nhị tướng chi nhân duyên dã.

Thiện nam tử! Như Lai vi Bồ Tát thời sở hành tinh tấn trừ thượng bát nhân. Quá khứ thế trung cánh vô năng cập.

Nhược quá khứ vô giả, đương tri vị lai chư Bồ Tát đẳng, diệc phục bất năng như thị cần hành thâm trọng tinh tấn như ngã sở hành.

Thiện nam tử! Phục quá vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, thử giới chuyển danh San-hô-trì, kiếp danh Hoa Thủ. Thị thời vô Phật, kỳ thế ngũ trược. Ngã ư thị trung tác Thích- đề-hoàn-nhân, danh Thiện Nhật Quang Minh, quan Diêm- phù-đề, kiến chư chúng sanh chuyển hành ác pháp. Ngã thời tức hóa vi dạ-xoa tượng, kỳ hình khả uý, há Diêm-phù- đề trụ chư nhân tiền. Chư nhân kiến ngã giai sanh bố uý, nhi vấn ngã ngôn: “Dục hà sở tu nguyện tốc thuyết chi.”

Ngã thời đáp ngôn: “Duy tu ẩm thực, cánh vô sở tu.”

Kỳ nhân phục vấn: “Dục thực hà đẳng?”

Ngã phục đáp ngôn: “Duy sát ư nhân đạm kỳ huyết nhục. Nhữ đẳng nhược năng tận kỳ hình thọ trì bất sát giới nãi chí chánh kiến, phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, nhược phát Thanh văn, Duyên giác tâm giả, ngã tắc bất phục thực đạm nhữ đẳng.”

Thiện nam tử! Ngã ư nhĩ thời thường tác hóa nhân dĩ cung thực ẩm. Nhĩ thời chúng sanh kiến ngã như thị bội sanh bố uý, tất giai tận hình thọ bất sát giới nãi chí chánh kiến, hoặc phát  A-nậu-đa-la  Tam-miệu  Tam-bồ-đề  tâm, hoặc phát Thanh văn, Bích-chi Phật tâm.

Ngã khuyến như thị Diêm-phù-đề nội nhất thiết chúng sanh, tu hành thập thiện trụ tam thừa dĩ, phục tác thệ nguyện: “Nhược ngã tất thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, sở nguyện thành tựu đắc kỷ lợi giả, phục đương khuyến thử tứ thiên hạ nhân linh hành thập thiện đạo, nãi chí biến mãn thử chi thế giới, tại tại xứ xứ tứ thiên hạ trung, dĩ như thị tướng mạo linh chư chúng sanh hành thập thiện đạo, khuyến hóa phát ư tam thừa chi tâm.

Như thị biến mãn nhất thế giới dĩ, nãi chí thập phương vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đẳng ngũ trược ác thế vô Phật quốc độ diệc phục như thị.

Thiện nam tử! Ngã ư nhĩ thời phát thị nguyện dĩ nhất thiết thành tựu, ư San-hô-trì thế giới, hóa tác khả uý dạ- xoa chi tượng, điều phục chúng sanh linh trụ thập thiện cập tam thừa trung.

Như thị biến ư thập phương vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đẳng ngũ trược ác thế, vô Phật quốc độ, tác dạ-xoa tượng điều phục chúng sanh, linh hành thập thiện, trụ tam thừa trung.

Ngã ư vãng tích khủng bố chúng sanh linh hành thập thiện, trụ tam thừa trung, dĩ thị nghiệp nhân duyên cố kim đắc tọa ư Bồ-đề thọ hạ, dục thành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề thời, Thiên ma Ba-tuần dữ chư đại chúng lai chí ngã sở dục đắc hoại loạn ngã Bồ-đề đạo.

Thiện nam tử! Lược thuyết ngã vi Bồ Tát chi thời Đàn ba-la-mật.

Thiện nam tử! Chư đại Bồ Tát thậm thâm pháp nhẫn, vi diệu tổng trì giải thoát tam-muội, ngã ư nhĩ thời tất vị đắc chi. Duy trừ nhị thân hữu lậu ngũ thông. Ngã ư nhĩ thời tác thử đại sự, linh vô lượng vô biên a-tăng-kỳ nhân, an chỉ trụ ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề; vô lượng vô biên a-tăng-kỳ nhân, an chỉ trụ ư Bích-chi Phật thừa; vô lượng vô biên a-tăng-kỳ nhân, an chỉ trụ ư Thanh văn thừa trung, huống phục kiêm đắc cúng dường chư Phật, như nhất Phật thế giới vi trần số đẳng, nhất nhất Phật biên sở đắc công đức, sổ như đại hải chư thủy trích đẳng, cúng dường vô lượng Thanh văn, Duyên giác sư trưởng, phụ mẫu, ngũ thông thần tiên, diệc phục như thị.

Như ngã tích giả vi Bồ Tát thời tự dĩ huyết nhục cung cấp chúng sanh, như thị đại bi kim chư La-hán tất vô thị tâm.

NHẬP ĐỊNH TAM MUỘI MÔN PHẨM ĐỆ LỤC

Nhĩ thời Phật cáo Tịch Ý Bồ Tát ma-ha-tát ngôn: “Thiện nam tử! Như ngã kim giả dĩ Phật nhãn kiến thập phương thế giới như nhất Phật độ vi trần đẳng, chư Phật Thế Tôn bát Niết-bàn giả, tất thị ngã tích chi sở khuyến hóa sơ phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, hành Đàn  ba-la- mật nãi chí Bát-nhã ba-la-mật giả. Vị lai chi thế diệc phục như thị.

Thiện nam tử! Ngã kim kiến thử đông phương thế giới vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đẳng chư Phật Thế Tôn kim hiện tại thế chuyển chánh pháp luân, diệc thị ngã tích sơ khuyến linh phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, hành lục ba-la-mật giả. Nam, tây, bắc phương, tứ duy thượng hạ diệc phục như thị.

Thiện nam tử! Đông phương khứ thử bát thập cửu ức chư Phật thế giới, bỉ hữu thế giới danh viết Thiện Hoa, thị trung hữu Phật hiệu Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn, kim hiện tại vị chúng sanh thuyết pháp. Bỉ Phật diệc thị ngã tích sở khuyến sơ phát A-nậu- đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, linh hành Đàn ba-la-mật nãi chí Bát-nhã ba-la-mật.

Đông phương phục hữu Diệu Lạc thế giới, thị trung hữu Phật hiệu A-súc Như Lai. Phục hữu Diêm-phù thế giới, thị trung hữu Phật hiệu Nhật Tạng Như Lai. Phục hữu thế giới danh Lạc Tự Tại, thị trung hữu Phật hiệu Lạc Tự Tại Âm Quang Minh Như Lai. Phục hữu thế giới danh viết An Lạc, thị trung hữu Phật hiệu Trí Nhật Như Lai. Phục hữu thế giới danh Thắng Công Đức, thị trung hữu Phật hiệu Long Tự Tại Như Lai. Phục hữu thế giới danh Thiện Tướng, thị trung hữu Phật hiệu Kim Cang Xưng Như Lai. Phục hữu thế giới danh Giang Hải Vương, thị trung hữu Phật hiệu Quang Minh Như Lai. Phục hữu thế giới danh Bất Ái Nhạo, thị trung hữu Phật hiệu Nhật Tạng Như Lai. Phục hữu thế giới danh Ly Cấu Quang Minh, thị trung hữu Phật hiệu Tự Tại Xưng Như Lai. Phục hữu thế giới danh Sơn Quang Minh, thị trung hữu Phật hiệu Bất Khả Tư Nghị Vương Như Lai. Phục hữu thế giới danh Tụ Tập, thị trung hữu Phật hiệu Đại Công Đức Tạng Như Lai. Phục hữu thế giới danh Hoa Quang Minh, thị trung hữu Phật hiệu Quang Minh Âm Tướng Như Lai. Phục hữu thế giới danh An Hồ Sí Thạnh, thị trung hữu Phật hiệu An Hồ Tự Tại Kiến Sơn Vương Như Lai. Phục hữu thế giới danh thiện địa, thị trung hữu Phật hiệu Tri Tượng Như Lai. Phục hữu thế giới danh viết Hoa Cái, thị trung hữu Phật hiệu Nhãn Tịnh Vô Cấu Như Lai.

Thiện nam tử! Như thị đông phương vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đẳng hiện tại chư Phật, vị chư chúng sanh chuyển chánh pháp luân giả, vị phát vô thượng Bồ-đề tâm thời, ngã sơ khuyến kỳ linh phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, hựu phục dẫn đạo tương chí thập phương tại tại xứ xứ Phật Thế Tôn sở. Tùy sở chí xứ, tu hành an chỉ Đàn ba-la- mật nãi chí Bát-nhã ba-la-mật, tiện đắc thọ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề ký.

Nhĩ thời đông phương Thiện Hoa thế giới Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương Phật, sư tử chi tòa cập kỳ đại địa lục chủng chấn động, hữu đại quang minh vũ ư chủng chủng diệu bảo liên hoa. Bỉ chư Bồ Tát kiến thị sự dĩ, tâm sanh kinh nghi quái vị tằng hữu, tức bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Hà nhân duyên cố, Như Lai chi tòa như thị chấn động? Ngã đẳng tích lai vị tằng kiến thị.”

Kỳ Phật tức cáo chư Bồ Tát ngôn: “Thiện nam tử! Tây phương khứ thử bát thập cửu ức chư Phật thế giới, bỉ hữu quốc độ danh viết Ta-bà, thị trung hữu Phật hiệu Thích-ca Mâu-ni Như Lai, kim hiện tại vị tứ bộ chúng thuyết bổn duyên pháp. Bỉ Phật Thế Tôn vi Bồ Tát thời, sơ khuyến hóa ngã phát A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề tâm, phục dẫn đạo ngã chí chư Phật sở, sơ linh ngã hành Đàn ba-la- mật nãi chí Bát-nhã ba-la-mật. Ngã ư nhĩ thời tùy sở chí xứ, tức đắc sơ thọ A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề ký. Bỉ Phật Thế Tôn Thích-ca Mâu-ni tức thị ngã chi chân thiện tri thức. Kim tại tây phương xử tại đại chúng, vị chư tứ bộ thuyết bổn duyên kinh. Thị bỉ Như Lai thần túc lực cố, linh ngã sở tọa sư tử tòa động. Thiện nam tử! Nhữ đẳng kim giả thùy năng chí bỉ Ta-bà thế giới, vấn tấn bỉ Phật khởi cư khinh lợi?

Thời chư Bồ Tát các bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Thử Thiện Hoa thế giới chư Bồ Tát đẳng giai đắc thần thông, ư chư Bồ Tát công đức tự tại. Kim nhật thanh đán kiến thị đại quang. Kỳ quang tất tùng chư Phật thế giới lai chí ư thử. Đại địa tức thời lục chủng chấn động, vũ chủng chủng hoa. Kiến thị sự dĩ, hữu vô lượng bá thiên vạn ức chư Bồ Tát đẳng, dục dĩ thần lực vãng Ta-bà thế giới, kiến Thích- ca Mâu-ni Phật, cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, tinh dục tư thọ Giải liễu nhất thiết đà-la-ni môn. Nhiên các bất tri Ta-bà thế giới Thích-ca Mâu-ni sở tại phương diện?”

Bỉ Phật tầm thân kim sắc hữu tý, ư ngũ chỉ đầu phóng ư chủng chủng vi diệu quang minh. Kỳ quang tức chiếu bát thập cửu ức chư Phật quốc độ chí Ta-bà thế giới. Thời chư Bồ Tát nhân quang đắc kiến Ta-bà thế giới hữu chư Bồ Tát ma-ha-tát đẳng sung mãn tắc tắc, phục hữu chư thiên, long, thần, càn-thát-bà, a-tu-la,  ca-lâu-la,  khẩn-na-la,  ma-hầu- la-già đẳng mãn hư không trung.

Kiến thị sự dĩ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngã kim dĩ đắc kiến bỉ thế giới, tri kỳ phương diện tinh kiến Bồ Tát chư thiên đại chúng di mãn kỳ độ gian vô không xứ. Thích-ca Như Lai phục quan ngã đẳng thuyết vi diệu pháp.”

Bỉ Phật cáo chư Bồ Tát đại sĩ: “Thiện nam tử! Thích- ca Như Lai hằng dĩ thanh tịnh vô thượng Phật nhãn, biến quan nhất thiết vô bất kiến giả. Thiện nam tử! Ta-bà thế giới sở hữu chúng sanh tại địa xứ không, nhất thiết giai ngôn: “Thích-ca Như Lai độc quán ngã tâm vị ngã thuyết pháp.”

Thiện nam tử! Bỉ Thích-ca Như Lai dĩ nhất âm thanh, vị chư chủng chủng dị loại thuyết pháp, chúng sanh các các tùy loại đắc giải. Bất dĩ dị âm vị đa nhân thuyết. Bỉ độ chúng sanh, hoặc sự Phạm thiên kiến Như Lai thân vi Phạm thiên tượng nhi đắc văn pháp. Nhược sự ma thiên, thích thiên, nhật nguyệt Tỳ-sa-môn thiên, Tỳ-lâu-lặc, Tỳ- lâu-bác-xoa, Đề-đầu-lại-trá, Ma-hê-thủ-la,  như  thị  chủng loại bát vạn tứ thiên, tùy kỳ sở sự các kiến kỳ tượng nhi đắc văn pháp, sanh độc vị tưởng.

Thị thời hội trung hữu nhị Bồ Tát, nhất danh La-hầu- điện, nhị danh Hỏa Quang Minh. Nhĩ thời Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương Phật cáo nhị Bồ Tát: “Thiện nam tử! Nhữ kim khả vãng Ta-bà thế giới. Nhữ trì ngã thanh vấn tấn Thích-ca Mâu-ni Thế Tôn, khởi cư khinh lợi, khí lực an phủ?”

Thời nhị Bồ Tát tức bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngã kiến bỉ Phật nhất thiết thế giới, đại chúng vân tập, tại địa xử không sung mãn tắc tắc, kỳ gian vô hữu không khuyết chi xứ. Nhược ngã đẳng vãng đương trụ hà xứ?”

Thời Phật cáo ngôn: “Chư thiện nam tử! Mạc tác thị ngữ, ngôn bỉ thế giới vô chỉ trụ xứ. Sở dĩ giả hà? Bỉ sở trụ xứ khoan bác vô biên. Bỉ Phật sở hữu vô lượng công đức bất khả tư nghị. Dĩ bổn nguyện cố, bi tâm quảng đại nãi linh vô lượng chư chúng sanh loại nhập ư Phật pháp, thọ Tam quy y, nhiên hậu vị thuyết tam thừa chi pháp. Phục thuyết tam giới thị tam thoát môn, phục bạt vô lượng vô biên chúng sanh ư tam ác đạo, an chỉ linh trụ tam thiện đạo trung.

Thiện nam tử! Hựu nhất thời trung Thích-ca Như Lai thành vô thượng đạo, vị cửu chi gian vị dục điều phục chư chúng sanh cố, tại Tỳ-đà sơn Nhân-bà-la quật, thất nhật thất dạ kết già phu tọa, tam-muội chánh thọ nhập giải thoát lạc. Phật thân nhĩ thời biến mãn thị quật gian, vô không xứ nãi chí tứ thốn. Quá thất nhật dĩ, thập phương thế giới hữu thập nhị na-do-tha Bồ Tát ma-ha-tát, chí Ta-bà thế giới trụ kỳ sơn biên, dục kiến Thích-ca Mâu-ni Như Lai cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, khải thọ diệu pháp.

Thiện nam tử! Nhĩ thời Như Lai ư sở trụ xứ, dĩ đại thần túc, linh kỳ quật xá khoan bác vô lượng, tất đắc dung thọ thập nhị na-do-tha Bồ Tát ma-ha-tát. Chư Bồ Tát đẳng ký đắc nhập dĩ, kiến kỳ quật xá quảng bác nghiêm sự. Hữu chư Bồ Tát, dĩ sư tử du hý tự tại thần túc cúng dường ư Phật, nhất nhất Bồ Tát ư hóa bảo tòa nhi tọa thính pháp.

Thiện nam tử! Bỉ Phật thần lực kỳ sự như thị. Thị chư Bồ Tát đắc văn pháp dĩ, tầm tùng tòa khởi đầu diện lễ Phật, hữu nhiễu tam táp, các các hoàn quy bổn Phật thế giới, kỳ khứ vị cửu quật hoàn như cố.

Bỉ tứ thiên hạ đệ nhị thiên  chủ  Thích-đề-hoàn-nhân danh Kiều-thi-ca, kỳ mạng tương chung tất định đương đọa súc sanh đạo trung. Dĩ thị sự cố tâm sanh khủng cụ, dữ bát vạn tứ thiên chư Đao-lợi thiên câu cộng lai há, nghệ Nhân- bà-la quật dục kiến Như Lai.

Thời hữu dạ-xoa danh viết Vương Nhãn, tức kỳ quật thần tại ngoại nhi trụ. Nhĩ thời Đế-thích dĩ Phật lực cố, tác thị tư duy: “Kim ngã đương sử càn-thát-bà tử Bát-già-tuần tiên chí Phật sở, dĩ diệu âm thanh tán vịnh Như Lai, đương linh Thế Tôn tùng tam-muội khởi.”

Thiện nam tử! Thích đề hoàn nhân tư duy thị dĩ, tức linh càn-thát-bà tử Bát-già-tuần đàn lưu ly cầm dĩ vi diệu âm, kỳ âm biệt dị hữu ngũ bá chủng dĩ tán Như Lai.

Thiện nam tử! Thị Bát-già-tuần đương tán Phật thời. Nhĩ thời Như Lai tức phục chuyển nhập tướng tam-muội trung. Dĩ tam-muội lực cố, ư thử thế giới tác đại thần lực, linh chư dạ-xoa, la-sát, càn-thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, Dục,  Sắc  giới  thiên  tất  lai  tụ tập kỳ trung. Nhược hữu hý văn diệu âm, tùy ý đắc văn, tâm đại hoan hỷ. Hoặc hữu hý văn tán thán Phật giả, văn tán thán dĩ tâm sanh hoan hỷ, ư Như Lai sở chuyển sanh tôn trọng cung kính chi tâm. Hoặc hữu chúng sanh hý văn nhạc âm, tức đắc văn chi văn dĩ hoan hỷ.

Nhĩ thời Thích-ca Mâu-ni Như Lai tầm tùng định khởi thị chư đại chúng Nhân-bà-la quật môn,  Thích-đề-hoàn- nhân tầm chí Phật sở, đầu diện lễ túc khước trụ nhất diện, bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Ngã ư kim giả đương tọa hà xứ?”

Thời Phật báo viết: “Kiêu thi ca! Nhữ chi quyến thuộc đãn nhập tụ tập. Ngã kim đương thác  thử Nhân-bà-la quật linh cực khoan bác, tất sử dung thọ thử thập nhị hằng hà sa đẳng đại chúng quyến thuộc giai linh đắc tọa.”

Nhĩ thời Thích-ca Mâu-ni Như Lai ư đại chúng trung, dĩ nhất diệu âm phu diễn chánh pháp, linh bát vạn tứ thiên chư căn chúng sanh tùy sở nhạo văn. Chúng trung hoặc hữu học Thanh văn giả văn Thanh văn pháp, tức hữu cửu thập cửu ức chúng sanh đắc Tu-đà-hoàn quả. Nhược hữu tu học Duyên giác thừa giả, tức tiện đắc văn Duyên giác chi pháp. Nhược hữu tu học Đại thừa pháp giả thuần văn Đại thừa.

Càn-thát-bà tử Bát-già-tuần đẳng thượng thủ chi chúng thập bát na-do-tha, đắc bất thối chuyển ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Vị phát tâm giả hoặc phát vô thượng Bồ-đề chi tâm, hoặc phát Duyên giác hoặc phát Thanh văn.

Nhĩ thời Thích-đề-hoàn-nhân khủng bố  tức  trừ,  tăng thọ thiên tuế, đắc Tu-đà-hoàn quả.

Thiện nam tử! Thích-ca Như Lai dĩ thần lực cố, năng tác như thị quảng bác vô biên. Thuyết pháp âm thanh diệc phục như thị. Diệc vô nhất nhân năng tầm bỉ Phật âm thanh tề hạn.

Bỉ Phật phương tiện vô lượng vô biên, sở hóa chúng sanh vô hữu năng tri như thị phương tiện.

Thiện nam tử! Bỉ Phật sắc thân diệc vô lượng vô biên, vô hữu nhân năng đắc kỳ thân lượng, kiến kỳ đỉnh giả.

Thiện nam tử! Như thị đại chúng nhược dục đắc nhập bỉ Phật phúc trung, tất diệc dung thọ. Ký nhập phúc dĩ, phục hữu dục đắc kỳ phúc biên giả, vô hữu thị xứ. Nhiên Như Lai phúc diệc bất tăng giảm.

Nhược chúng sanh loại giai cộng hồ hợp dục vãng lai giả, ư nhất mao trung tất vô quái ngại, nãi chí thiên nhãn diệc vô năng đắc nhất mao khổng biên. Nhiên kỳ mao khổng diệc bất tăng bất giảm.

Bỉ Phật Thế Tôn kỳ thân như thị vô lượng vô biên. Thiện nam tử! Bỉ Phật thế giới diệc vô lượng vô biên.

Thiện nam tử! Giả sử thập phương như nhất hằng hà sa đẳng thế giới, sở hữu chúng sanh nhập bỉ thế giới diệc đắc dung thọ. Hà dĩ cố? Bỉ Phật sơ phát Bồ-đề tâm thời, sở tác thệ nguyện vô lượng vô biên.

Thiện nam tử! Trí thị nhất hằng hà sa đẳng thế giới chúng sanh, nãi chí thập phương thiên hằng hà sa đẳng thế giới chúng sanh, nhập bỉ thế giới diệc đắc dung thọ. Như kỳ bổn tướng bất tăng bất giảm.

Thiện nam tử! Thích-ca Như Lai sơ phát vô thượng Bồ- đề tâm thời, dục đắc cụ túc nhất thiết trí cố phát đại thệ nguyện. Thị cố kim giả sở đắc thế giới vô lượng vô biên.

Thiện nam tử! Thích-ca Mâu-ni dĩ thị tứ pháp, chư Phật Thế Tôn sở bất năng cập.

Thiện nam tử! Nhữ kim trì thử Nguyệt quang minh vô cấu tịnh hoa, vãng ư tây phương như mục sở kiến Ta-bà thế giới, tinh trì ngã thanh vấn tấn bỉ Phật khởi cư khinh lợi, khí lực an phủ?

Nhĩ thời Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương Phật, thủ Nguyệt quang minh vô cấu tịnh hoa, dữ nhị Bồ Tát nhi cáo chi viết: “Nhữ kim thừa ngã đại thần thông lực vãng bỉ thế giới.”

Nhĩ thời hội trung hữu nhị vạn Bồ Tát bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Như thị như thị! Ngã đẳng kim đương thừa Phật thần lực vãng bỉ thế giới kiến Thích-ca Như Lai, cúng dường cung kính tôn trọng tán thán.”

Bỉ Phật cáo viết: “Thiện nam tử! Nhữ đẳng nghi tri thị thời.”

Thời nhị Bồ Tát dữ nhị vạn đại sĩ thừa Phật thần lực, phát Thiện Hoa giới  nhất  niệm  chi  khoảnh,  hốt  nhiên lai đáo Ta-bà thế giới Kỳ-xà-quật sơn, tại Như Lai tiền trường quỵ xoa thủ tiền bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Đông phương khứ thử bát thập cửu ức Phật chi thế giới, bỉ hữu thế giới danh viết Thiện Hoa, thị trung hữu Phật hiệu Vô Cấu Công Đức Quang Minh Vương Phật, kim hiện tại dữ chư Bồ Tát ma-ha-tát đẳng đại chúng vi nhiễu, tán thán Thế Tôn vô lượng công đức, tác như thị ngôn: “Ta-bà thế giới hữu Thích-ca Mâu-ni Như Lai, kim hiện tại vị chư đại chúng chuyển chánh pháp luân, bỉ Phật Thế Tôn vi Bồ Tát thời, sơ khuyến hóa ngã phát Bồ-đề tâm, dĩ thị nhân duyên ngã ư nhĩ thời tầm đắc phát ư vô thượng đạo tâm, ngã phát tâm dĩ phục khuyến tu tập lục ba-la-mật, nãi chí Như Lai dĩ thị tứ pháp, chư Phật Thế Tôn sở bất năng cập. Thị cố bỉ Phật dĩ thử nguyệt quang minh vô cấu tịnh hoa, cúng dường Thế Tôn, vấn tấn Như Lai khởi cư khinh lợi, khí lực an phủ?

Thiện nam tử! Đông phương Diệu Lạc thế giới A-súc Như Lai, sở tọa chi xứ sư tử chi tòa diệc lục chủng động, diệc hữu vô lượng chư đại Bồ Tát kiến thị sự dĩ bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Hà nhân duyên cố, Như Lai sở tọa sư tử tòa xứ, như thị chấn động…” Như thượng sở thuyết. Nhất thiết đông phương diệc phục như thị.

Nhĩ thời đông phương vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đẳng chư đại Bồ Tát, giai lai đáo thử Ta-bà thế giới, tất trì nguyệt quang minh vô cấu tịnh hoa, kiến Phật cúng dường cung kính tôn trọng tán thán.

Thiện nam tử! Như thị đông phương vô lượng chư Phật, giai khiển chư Bồ Tát xưng tán ư ngã.

Thiện nam tử! Ngã kim kiến thử nam phương khứ thử thế giới, quá nhất hằng hà sa đẳng chư Phật quốc độ, bỉ hữu thế giới danh Ly Chư Ưu, thị trung hữu Phật hiệu Vô Ưu Công Đức Như Lai, kim hiện tại thuyết pháp. Phục hữu thế giới danh Diêm-phù Quang Minh, thị trung hữu Phật hiệu Pháp Tự Tại Sư Tử Du Hý Như Lai. Phục hữu thế giới danh an Tu-di, thị trung hữu Phật hiệu Đạo Tự Tại Sa La Vương Như Lai. Phục hữu thế giới danh Công Đức Lâu Vương, thị trung hữu Phật hiệu Sư Tử Hống Vương Như Lai. Phục hữu thế giới danh Trân Bảo Trang Nghiêm, thị trung hữu Phật hiệu Bát Tý Thắng Lôi Như Lai. Phục hữu thế giới danh Chân Châu Quang Minh Biến Chiếu, thị trung hữu Phật hiệu Trân Bảo Tạng Công Đức Hống

Như Lai. Phục hữu thế giới danh Thiên Nguyệt, thị trung hữu Phật hiệu Hỏa Tạng Như Lai. Phục hữu thế giới danh Chiên-đàn-căn, thị trung hữu Phật hiệu Tinh Tú Xưng Như Lai. Phục hữu thế giới danh viết Xưng Hương, thị trung hữu Phật hiệu Công Đức Lực Sa La Vương Như Lai. Phục hữu thế giới danh viết Thiện Thích, thị trung hữu Phật hiệu Diệu Âm Tự Tại Như Lai. Phục hữu thế giới danh Đầu Lan Nhã, thị trung hữu Phật hiệu Sa-la Thắng Tỳ-bà Vương Như Lai. Phục hữu thế giới Danh Nguyệt Tự Tại, thị trung hữu Phật hiệu Quang Minh Tự Tại Như Lai. Phục hữu thế giới danh Thiện Lôi Âm, thị trung hữu Phật hiệu Diệu Aâm Tự Tại Như Lai. Phục hữu thế giới danh Bảo Hồ Hợp, thị trung hữu Phật hiệu Bảo Chưởng Long Vương Như Lai. Phục hữu thế giới danh Thùy Bảo Thọ, thị trung hữu Phật hiệu Lôi Âm Tự Tại Pháp Nguyệt Quang Minh Như Lai.

Như thị nam phương vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đẳng hiện tại chư Phật, tất thị ngã tích vi Bồ Tát thời sơ khả khuyến phát Bồ-đề tâm giả. Thị chư Thế Tôn sư tử tòa xứ diệc giai chấn động. Bỉ chư Phật đẳng diệc các tán thán ngã chi công đức, diệc khiển vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đẳng chư đại Bồ Tát, trì nguyệt quang minh vô cấu tịnh hoa, tất lai chí thử Ta-bà thế giới Kỳ-xà-quật sơn, kiến Phật lễ bái cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, khước tọa nhất diện, thứ đệ thính pháp.

Thiện nam tử! Ngã kim phục kiến tây phương khứ thử thất vạn thất thiên bá thiên do-tuần Phật chi thế giới, bỉ hữu thế giới danh Tịch Tĩnh, thị trung hữu Phật hiệu viết

Bảo Sơn, kim hiện tại vị chư tứ chúng thuyết vi diệu pháp.

Phục hữu Thắng Quang Vô Ưu Phật, Âm Trí Tạng Phật, Xưng Quảng Phật, Biến Tạng  PhậtPhạm  Hoa  PhậtThế Tấn Phật, Pháp Đăng Dũng PhậtThắng  Âm  Sơn  Phật, Xưng Âm Vương Phật, Phạm Âm Vương Phật. Như thị tây phương vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đẳng chư Phật Thế Tôn, diệc thị ngã tích vi Bồ Tát thời sơ khả khuyến phát Bồ-đề tâm giả. Thị chư Thế Tôn sư tử chi tòa diệc giai chấn động. Bỉ chư Phật đẳng diệc các tán thán ngã chi công đức, diệc khiển vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đẳng chư đại Bồ Tát, trì nguyệt quang minh vô cấu bảo hoa, tất lai chí thử Ta-bà thế giới Kỳ-xà-quật sơn, kiến Phật lễ bái cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, khước tọa nhất diện, thứ đệ thính pháp.

Bắc phương khứ thử bá thiên na-do-tha Phật thế giới, bỉ hữu thế giới danh Vô Cấu, thị trung hữu Phật hiệu Ly Nhiệt Não Tăng Tỳ-sa-môn Sa-la vương Như Lai. Hữu nhị Bồ Tát, nhất danh Bảo Sơn, nhị danh Quang Minh Quán.

Phục hữu Hoại Chư Ma Phật, Sa-la Vương Phật, Đại Lực Quang Minh Phật, Liên Hoa Tăng Phật, Chiên-đàn Phật, Di-lâu Vương Phật, Kiên Trầm Thủy Phật, Hỏa Trí Đại Lực Phật. Như thị vô lượng chư Phật Như Lai.

Nãi chí tây bắc phương, tứ duy thượng hạ giai diệc như thị.

Nhĩ thời Thích-ca Mâu-ni Như Lai dĩ đại thần lực vị dục dung thọ như thị chúng cố, tức nhất nhất biến lai hội giả thân, cực linh vi tế như đình lịch tử. Ta-bà thế giới hư không cập địa, di mãn tắc tắc gian vô không xứ nãi chí nhất mao.

Thời chư chúng sanh các bất tương kiến, diệc phục bất kiến đại tiểu chư sơn Tu-di sơn vương, đại tiểu Thiết vi nhị vi chi trung gian u minh chi xứ, cập thượng chư thiên sở hữu cung điện, hạ chí bất kiến kim cang địa tế, duy trừ nhất nhân Phật Thế Tôn dã.

Nhĩ thời Thích-ca Mâu-ni Như Lai phục nhập Biến hư không đoạn trừ chư pháp định ý tam-muội, linh thử vô lượng nguyệt quang tịnh hoa tất nhập nhất thiết thân chư mao khổng. Nhất thiết đại chúng tất giai tự kiến.

Nhĩ thời chúng sanh đô bất ức niệm Phật sắc thân tướng duy kiến mao khổng hữu diệu viên quan. Kỳ viên quan trung hữu chư bảo thọ. Kỳ thọ phục hữu chủng chủng hành diệp, hoa quả mậu thạnh. Chủng chủng bảo y thiên phan tràng cái, thiên quán bảo sức, chân châu anh lạc sở hữu trang nghiêm, thí như Tây phương An Lạc thế giới. Thị chư đại chúng kiến thị sự dĩ, phục tác tư duy: “Kim ngã đương vãng du quán bỉ viên.”

Nhĩ thời duy trừ tam ác chúng sanh cập vô sắc thiên, kỳ dư sở hữu nhất thiết đại chúng giai tùng mao khổng nhập Như Lai thân xứ viên nhi tọa.

Nhĩ thời Như Lai hoàn xả thần túc, thời chư đại chúng các các hoàn đắc như bổn tương kiến, các tương vị ngôn: “Như Lai kim giả vi tại hà xứ?”

Nhĩ thời Di-lặc Bồ Tát cáo chư đại chúng: “Nhữ đẳng đương tri! Ngã kim dữ nhữ đẳng tất tại Như Lai thân phần chi trung.

Nhĩ thời đại chúng tức kiến Như Lai thân chi nội ngoại, tầm tự giác tri dữ vô lượng đại chúng tập tụ, cộng xử Như Lai thân trung, phục tương vị ngôn: “Ngã đẳng vi tùng hà xứ đắc nhập? Thùy tương đạo ngã linh nhập thị trung?”

Di-lặc Bồ Tát phục cáo chi viết: “Đế thính đế thính! Như Lai kim giả hiện đại thần thông biến hóa chi lực, phục vị lợi ích ngã đẳng đại chúng tương dục thuyết pháp. Nhân đẳng kim đương nhất tâm chuyên niệm.”

Nhĩ thời đại chúng văn thị ngữ dĩ, trường quỵ hợp chưởng thọ giáo nhi thính.

Nhĩ thời Thế Tôn dĩ nhất thiết hạnh môn nhi diễn thuyết pháp.

Hà đẳng danh vi nhất thiết hạnh môn? Xuất sanh tử ứ nê, nhập bát thánh đạo. Cụ túc thành tựu đắc nhất thiết trí.

Thiện nam tử! Hữu thập chuyên tâm phát ư bồ đề năng nhập thị môn. Hà đẳng vi thập?

Nhất giả dục linh chúng sanh tất đắc giải thoát, hồi hướng tùy hỷ cố.

Nhị giả phát đại bi tâm nhiếp chúng sanh cố.

Tam giả dục độ vị độ, tinh cần tu trị vô thượng pháp thuyền cố.

Tứ giả dục giải vị giải giả trang nghiêm, quán thoát ư hư vọng điên đảo cố.

Ngũ giả dục sư tử hống vô sở bố uý trang nghiêm, quán ư chư pháp tánh vô ngã cố.

Lục giả dục tùy sở đáo nhất thiết thế giới tâm vô phân biệt, thiện học chư pháp đồng thập dụ cố.

Thất giả dục đắc quang minh trang nghiêm thế giới, tu trị giới tụ linh thanh tịnh cố.

Bát giả thành tựu trang nghiêm Như Lai thập lực, cụ túc nhất thiết ba-la-mật cố.

Cửu giả thành tựu trang nghiêm tứ vô sở uý, như thuyết nhi tác cố.

Thập giả trang nghiêm thập bát bất cộng chi pháp, tùy sở văn pháp tất đắc vô dư, bất phóng dật cố.

Thị danh thập pháp chuyên tâm phát ư vô thượng Bồ- đề, tắc năng nhập thị nhất thiết hạnh môn, tức đắc bất thối vô thượng Bồ-đề, vô tướng hạnh môn, trí đạo hạnh môn, nhất thiết pháp vô ngã, tâm vô tư duy, bất sanh bất diệt. Thị danh Bồ Tát bất thối chuyển địa. Dĩ thị cố phi thối, phi bất thối, phi đoạn, phi thường, phi định, phi loạn.

Thuyết thị pháp thời, Như Lai phúc nội bát thập ức hằng hà sa đẳng Bồ Tát ma-ha-tát, đắc bất thối chuyển ư A-nậu- đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, bất khả sổ Bồ Tát ma-ha-tát đắc chư tam-muội thậm thâm pháp nhẫn, tất tùng Như Lai thân mao khổng xuất, tâm đại kinh quái thán vị tằng hữu, tức ư Phật tiền đầu diện trước địa vị Phật tác lễ. Khởi dĩ hốt nhiên các hoàn thập phương bổn Phật thế giới, phục văn Thích-ca Mâu-ni Như Lai sở diễn âm thanh, quá thập phương vô lượng vô biên a-tăng-kỳ đẳng chư Phật thế giới, vô chư chướng ngại.

Thị chư Bồ Tát tuy hoàn bỉ giới, tục văn Như Lai sở diễn âm giáo, chương cú nghĩa vị vô sở giảm thiểu, như tại Phật tiền cận thính vô dị. Thân diệc như thị biến chư thập phương vô lượng thế giới. Diệc hữu vô lượng vô biên a-tăng- kỳ Bồ Tát Thanh văn diệc kiến mao khổng xuất nhập vô ngại. Như thị đệ nhị nãi chí nhất thiết nhất nhất mao khổng xuất nhập vô ngại. Thập phương thế giới diệc như thị.

Nhĩ thời đại chúng tùng Thích-ca Như Lai mao khổng trung xuất, đầu diện lễ Phật hữu nhiễu tam táp trụ ư Phật tiền, dĩ chủng chủng âm nghĩa nhi tán thán Phật.

Nhĩ thời Dục giới, Sắc giới chư thiên, vũ chủng chủng hoa, đồ hương, mạt hương, tràng phan, anh lạc, vi diệu kỹ nhạc cúng dường Như Lai.

Nhĩ thời hội trung hữu nhất Bồ Tát danh Vô Uý Đẳng Địa, trường quỵ xoa thủ tiền bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Như thị đại kinh đương danh hà đẳng? Vân hà phụng trì?”

Phật cáo Vô Uý Đẳng Địa Bồ Tát: “Thị kinh đương danh

Giải liễu nhất thiết đà-la-ni môn; diệc danh Vô Lượng Phật; diệc danh Đại chúng, diệc danh Thọ Bồ Tát ký; diệc danh Tứ vô sở uý xuất hiện ư thế; diệc danh Nhất thiết chư tam- muội môn; diệc danh Thị hiện chư Phật thế giới; diệc danh Do như đại hải; diệc danh Vô lượng, diệc danh Đại bi liên hoa.”

Vô Uý Đẳng Địa Bồ Tát ma-ha-tát phục bạch Phật ngôn: “Thế Tôn! Nhược hữu thiện nam tử, thiện nữ nhân thọ trì thị kinh độc tụng thông lợi, vị tha nhân thuyết nãi chí nhất kệ đắc kỷ sở phước?”

Phật cáo Vô Uý Đẳng Địa Bồ Tát: “Ngã dĩ tiên thuyết sở đắc phước đức, kim đương vị nhữ cánh lược thuyết chi. Thiện nam tử, thiện nữ nhân, nhược hữu thọ trì thị kinh, độc tụng thông lợi, vị tha nhân thuyết nãi chí nhất kệ, ư hậu ngũ thập tuế trung, nãi chí hữu năng thư tả nhất kệ, sở đắc công đức thắng chư Bồ Tát thập đại kiếp trung hành lục ba-la-mật.

Hà dĩ cố? Chư thiên ma, phạm, sa-môn, bà-la-môn, dạ- xoala-sát,  long,  càn-thát-bàa-tu-laca-lâu-lakhẩn-na- la, ma-hầu-la-già, câu-biện-đồ, ngạ  quỷ,  tỳ-xá-già,  nhân cập phi nhân hữu sân khuể tâm giả, văn thị kinh dĩ tức đắc thanh tịnh, nhu nhuyễn, hoan hỷ, diệc ly chư bệnh, phẫn nộ, oán tặc, chủng chủng đấu tránh, tiêu diệt nhất thiết bạo phong ác vũ, bệnh giả đắc dũ, cơ khát giả đắc bão mãn, thọ chư khối lạc, hồ hợp tương thuận. Sân khuể chi giả năng linh nhẫn nhục. Bố uý giả vô sở uý bố, thọ chư hoan lạc. Hữu phiền não giả linh ly phiền não. Năng linh thiện căn nhất thiết tăng trưởng, năng bạt ác đạo sở hữu chúng sanh. Năng thị tam thừa xuất yếu chi lộ, năng đắc thậm thâm pháp nhẫn tam-muội đà-la-ni môn. Năng dữ chúng sanh tác đại lợi ích. Năng tọa đạo tràng kim cang chi tòa, năng phá tứ ma. Năng thị nhất thiết trợ Bồ-đề pháp. Năng chuyển pháp luân. Vô thánh tài giả năng linh cụ túc. Năng linh vô lượng vô biên chúng sanh nhập vô uý thành.

Dĩ thị nhân duyên, năng trì thử kinh, độc tụng thông lợi, vị tha nhân thuyết nãi chí nhất kệ, nhược hậu mạt thế ngũ thập tuế trung nãi chí hữu năng thư tả nhất kệ, đắc như thị đẳng vô lượng vô biên phước đức chi tụ. Thị cố ngã kim thuyết như thị kinh.

Như thị đại kinh đương phó chúc thùy? Thùy năng ư hậu ngũ thập tuế trung hộ trì thị pháp? Thùy năng dữ chư tại tại xứ xứ bất thối Bồ Tát tuyên thuyết linh văn? Thùy phục năng vị hành phi pháp dục, ác tham, tà kiến, bất tín thiện ác hữu quả báo giả diễn bố thị giáo?

Nhĩ thời đại chúng giai tri Phật tâm. Ư thời hữu nhất đại tiên dạ-xoa danh Vô oán Phí Túc tọa ư chúng trung. Nhĩ thời Di-lặc Bồ Tát ma-ha-tát tức tùng tòa khởi, tương thị dạ-xoa chí ư Phật sở.

Thị thời Như Lai cáo thị dạ-xoa đại tiên: “Nhữ kim đương thọ thị kinh, nãi chí mạt hậu ngũ thập tuế trung, vị bất thối Bồ Tát nãi chí bất tín thiện ác báo giả diễn bố thị giáo.”

Nhĩ thời dạ-xoa tức bạch Phật ngôn: “Ngã ư quá khứ bát thập tứ đại kiếp trung, dĩ bổn nguyện cố tác tiên dạ- xoa, tu hành A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề.  Nhĩ  thời giáo hóa vô lượng vô biên a-tăng-kỳ nhân, an chỉ ư tứ vô lượng tâm, phục linh vô lượng vô biên chúng sanh bất thối chuyển ư A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Thế Tôn! Ngã kim đương vị vị lai chi thế nhất thiết chúng sanh tác ủng hộ cố. Ư hậu mạt thế ngũ thập tuế trung thọ trì thị kinh, nãi chí tùng tha văn tứ cú kệ, yếu đương độc tụng tất linh thông lợi, lưu bố dữ nhân linh bất đoạn tuyệt.”

Phật thuyết thị kinh dĩ, Tịch Ý Bồ Tát, chư thiên đại chúng, càn-thát-bà đẳng, nhân cập phi nhân giai đại hoan hỷ, đầu diện tác lễ thối tọa nhi khứ.