CHUYỂN PHÁP LUÂN (1)
Tôi nghe như thế này:(2)
Có một lúc đức Phật(3) tại thành Vương Xá,(4) núi Kỳ-xà-quật,(5) cùng với sáu mươi hai ngàn vị đại tỳ-kheo.(6) Các vị đều là những bậc A-la-hán(7) đã dứt sạch lậu hoặc,(8) không còn sinh khởi các phiền não,(9) mọi việc
(1)Chuyển pháp luân: chỉ việc thuyết giảng chánh pháp, ví như người ta quay cái bánh xe để làm cho mọi thứ chuyển động. Đức Phật thuyết pháp cũng làm cho thế gian được xoay chuyển, đạt đến sự giải thoát, nên gọi là chuyển pháp luân, tức là chuyển bánh xe pháp.
(2)“Tôi nghe như thế này” là lời tự xưng của ngài A-nan, người đã ghi nhớ và thuật
lại kinh này. Câu này trong kinh văn chữ Hán là “Như thị ngã văn”, được đặt ở đầu tất cả các kinh điển như một dấu hiệu làm tin, để xác nhận rằng kinh điển ấy được ngài A-nan nghe từ chính kim khẩu của đức Phật Thích-ca nói ra.
(3)Tức là Phật Thích-ca Mâu-ni. Trong kinh này có sự xuất hiện của nhiều vị Phật
khác nhau, vì thế, chúng tôi sẽ tùy theo từng chỗ để chuyển dịch sao cho tránh được sự nhầm lẫn.
(4) Thành Vương Xá, tên Phạn ngữ là Rājagṛha , ở nước Ma-già-đà thuộc miền trung
Ấn Độ, là đô thành của vua Tần-bà-sa-la, cha của vua A-xà-thế.
(5) Núi Kỳ-xà-quật, tên Phạn ngữ là Gṛdhrakūṭa, cũng thường gọi là núi Linh Thứu. Đại tỳ-kheo: Tỳ-kheo là người thuộc nam giới xuất gia theo Phật (nữ giới xuất gia gọi là tỳ-kheo ni), thọ cụ túc giới, chỉ đi khất thực, sống bằng sự cúng dường của bá tánh, Phạn ngữ là Bhiksu, bao hàm bốn nghĩa: 1. Giữ hạnh khất thực thanh tịnh. 2. Phá trừ phiền não. 3. Trì giới thanh tịnh. 4. Có thể làm hàng phục chúng ma. Những vị tỳ-kheo (Bhiksu) tuổi cao đức trọng được tôn xưng là đại tỳ-kheo.
(7)A-la-hán: Bậc tu hành đã chứng đắc quả vị cao nhất của Thanh văn thừa, tức quả A-la-hán (Arhat). Thanh văn thừa có bốn thánh quả từ thấp lên cao là Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán.
(8)Lậu hoặc: sự sinh khởi những tâm thức xấu ác làm cho trí huệ phải bị che mờ, giống như vật chứa bị rỉ chảy làm cho những gì chứa trong đó phải hao mất dần. Trong một chừng mực nhất định, lậu hoặc cũng có thể xem là một tên gọi khác của phiền não.
(9)Phiền não: những trạng thái tâm thức xấu ác sinh khởi do tham, sân và si, nguyên nhân gây ra sự khổ đau của mọi chúng sinh.
đều được tự tại, tâm được giải thoát, trí huệ được giải thoát, như các bậc đại long tượng(1) khéo điều phục. Các ngài đã làm xong mọi việc cần làm, buông bỏ được gánh nặng, tự thân đã được sự lợi ích, dứt hết mọi chấp hữu,(2) đạt trí huệ chân chánh nên tâm được tự tại. Hết thảy các ngài đều đã được giải thoát, chỉ trừ ngài A-nan.(3)
Trong pháp hội có bốn trăm bốn mươi vạn Bồ Tát, đứng đầu là Bồ Tát Di-lặc. Các vị đều đã đạt được các pháp nhẫn nhục, thiền định, đà-la-ni.(4) Các ngài hiểu sâu ý nghĩa các pháp đều là không và hoàn toàn không có tướng nhất định. Các vị đại sĩ(5) như thế đều là những bậc không còn thối chuyển(6) trên đường tu tập.
Bấy giờ lại có vị Đại Phạm thiên vương(7) và vô số trăm ngàn thiên tử(8) ở cõi trời ấy, cùng với vị Thiên vương cõi trời
(1)Nguyên văn dùng Ma-ha-na-già, phiên âm từ Phạn ngữ là Mahānāgā, nghĩa là đại long tượng (voi chúa, rồng chúa), chỉ những bậc siêu quần xuất chúng, so sánh như long vương, tượng vương giữa các loài thú khác. Từ này cũng có nghĩa là “đại vô tội”, có nghĩa là người đã dứt sạch mọi tội lỗi.
(2)Chấp hữu: sự vọng chấp của chúng sinh do vô minh che lấp, luôn cho rằng thế
giới vật chất là thật có, từ đó sinh ra mê đắm, trong khi thật tánh của tất cả các pháp vốn là không.
(3)Chỉ trừ ngài A-nan: Ngài A-nan tuy có nhân duyên được theo hầu bên Phật, được
nghe tất cả các kinh điển do Phật thuyết, nhưng cho đến khi đức Phật nhập Niết- bàn rồi ngài A-nan vẫn chưa chứng đắc quả vị A-la-hán, nên ở đây nói là ngài chưa được giải thoát.
(4) Đà-la-ni: phiên âm từ Phạn ngữ dhāraṇi, Hán dịch là tổng trì, có nghĩa là thâu
nhiếp, nắm giữ được tất cả.
(5) Đại sĩ: một danh xưng khác để gọi các vị Bồ Tát.
(6)Không còn thối chuyển: địa vị tu chứng không còn bất cứ nguyên nhân, điều kiện nào có thể làm cho người tu thối lui trên đường tu tập.
(7)Đại Phạm thiên vương: vị vua ở cõi trời Đại Phạm (Mahābrahman).
(8)Thiên tử: các chúng sinh được sinh lên cõi trời đều gọi chung là thiên tử. Vì vậy, thiên tử ở đây có nghĩa là cư dân ở các cõi trời, khác với danh từ thiên tử ta thường dùng để gọi các vị vua ở thế gian.
Tha hóa tự tại(1) và số quyến thuộc là bốn trăm vạn cùng đến dự pháp hội.
Lại có vị Hoá Lạc(2) Thiên vương với số quyến thuộc là ba trăm năm mươi vạn cùng đến dự pháp hội.
Lại có vị Đâu-suất(3) Thiên vương với số quyến thuộc là ba trăm vạn cùng đến dự pháp hội.
Lại có vị Dạ-ma(4) Thiên vương với số quyến thuộc là ba trăm năm mươi vạn cùng đến dự pháp hội.
Lại có vị Đao-lợi(5) Thiên vương Thích-đề-hoàn-nhân(6)
với số quyến thuộc là bốn trăm vạn cùng đến dự pháp hội.
Lại có vị Tỳ-sa-môn Thiên vương(7) với quyến thuộc mười vạn quỷ thần cùng đến dự pháp hội.
(1)Cõi trời Tha hóa tự tại, cũng gọi tắt là Tha hóa, tên Phạn ngữ là Paranirmita- vaśavartina, là cõi trời thứ sáu trong 6 cõi trời thuộc Dục giới, nên cũng gọi là Đệ lục thiên. Tha hóa tự tại Thiên vương cũng chính là Ma vương Ba-tuần, một trong Bốn thứ ma não hại người tu.
(2)Hóa Lạc thiên (cõi trời Hóa Lạc), tên Phạn ngữ là Nirmanarataya, là cõi trời thứ
năm trong 6 tầng trời thuộc cõi Dục giới, ở trên cõi trời Đâu-suất và dưới cõi trời Tha hóa tự tại.
(3)Đâu-suất thiên (cõi trời Đâu-suất), tên Phạn ngữ là Tuṣita, là cõi trời thứ tư trong
6 cõi trời thuộc Dục giới, cũng gọi là Diệu túc thiên, Tri túc thiên, Hỷ túc thiên hay Hỷ lạc thiên.
(4)Dạ-ma thiên (cõi trời Dạ-ma), tên Phạn ngữ là Yāma, viết đầy đủ là Suyāma (Tu-
dạ-ma), là cõi trời thứ ba trong 6 cõi trời thuộc Dục giới, cũng gọi là Diễm thiên hay Thiện phân thiên.
(5)Đao-lợi thiên (cõi trời Đao-lợi), tên Phạn ngữ là Trāyastrṃśa, là cõi trời thứ hai
trong sáu cõi trời thuộc Dục giới, cũng gọi là cõi trời Ba mươi ba (Tam thập tam thiên), nằm ở đỉnh núi Tu-di bên trên cõi Diêm-phù-đề.
(6)Thích-đề-hoàn-nhân, Phạn ngữ là Sakra Kevānām Indra, là tên gọi của vị thiên
chủ cõi trời Đao-lợi.
(7)Tỳ-sa-môn Thiên vương, tên Phạn ngữ là Vaiśravaṇa, vị Thiên vương đứng đầu trong Bốn Thiên vương, là các vị Thiên vương hộ pháp trong Phật giáo, cũng thường gọi là bốn vị Hộ Thế Thiên vương. Tỳ-sa-môn Thiên vương trấn thủ ở phương bắc, vì thường đến nghe thuyết pháp tại các đạo trường nên cũng gọi là Đa Văn Thiên vương.
Lại có vị Tỳ-lâu-lặc Thiên vương(1) với quyến thuộc một ngàn quỷ câu-biện-đồ(2) cùng đến dự pháp hội.
Lại có vị Tỳ-lâu-la-xoa Thiên vương(3) với quyến thuộc một ngàn con rồng cùng đến dự pháp hội.
Lại có vị Đề-đầu-lại-trá Thiên vương(4) với quyến thuộc một ngàn càn-thát-bà(5) cùng đến dự pháp hội.
Lại có các vị Nan-đà Long vương, Bà-nan-đà Long vương,(6) mỗi vị đều dẫn theo một ngàn quyến thuộc cùng đến dự pháp hội.
Hết thảy chúng hội như trên đều là những vị đã phát tâm hướng về Đại thừa, đều đã thực hành sáu pháp ba-la-mật.(7)
(1)Tỳ-lâu-lặc Thiên vương, cũng đọc là Tỳ-lâu-lặc-xoa, tên Phạn ngữ là Virūḍhaka, cũng gọi là Tăng Trưởng Thiên vương, là một trong Tứ Thiên vương hộ pháp, vị này trấn giữ ở phía nam núi Tu-di.
(2) Quỷ câu-biện-đồ, tên Phạn ngữ là Kumbhāṇḍa, cũng đọc là câu-bàn-đồ, còn gọi
là quỷ Đông qua, là loài quỷ ẩn hình hút lấy tinh khí của người mà sống, thuộc quyền quản lãnh của Tỳ-lâu-lặc Thiên vương ở phương nam.
(3)Tỳ-lâu-la-xoa Thiên vương, tên Phạn ngữ là Virūpākṣa, cũng gọi là Tăng trưởng
Thiên vương, là một trong Tứ Thiên vương hộ pháp, vị này trấn giữ ở phía tây núi
Tu-di, cũng gọi là Quảng Mục Thiên vương.
(4) Đề-đầu-lại-trá Thiên vương, tên Phạn ngữ là Dhṛitarāṣṭra, cũng đọc là Đa-la-trá Thiên vương, dịch nghĩa là Trì Quốc Thiên vương, là một trong Tứ Thiên vương hộ pháp, vị này trấn giữ ở phía nam núi Tu-di.
(5)Càn-thát-bà, tên Phạn ngữ là Gandharva, dịch theo nghĩa là Hương thần, là loài quỷ thần không cần ăn uống, chỉ cần ngửi mùi hương. Vì thế mà thân thể loài này tự xuất ra mùi hương. Đây cũng là một trong Tám bộ chúng thường đến nghe Phật thuyết pháp.
(6)Nan-đà Long vương (Nanda) là vị đứng đầu trong Bát đại Long vương, cùng với Bà-nan-đà Long vương là hai anh em. Cả hai vị thường làm mưa thuận gió hòa, khiến nhân dân an lạc, nên đều được xưng tụng là Hoan Hỷ Long vương.
(7)Sáu pháp Ba-la-mật (Sanskrit: pāramitā), viết đủ là Ba-la-mật-đa, cũng gọi là Lục độ (六度), dịch nghĩa là Cứu cánh đáo bỉ ngạn. Đó là các pháp tu tập của hàng Bồ Tát, gồm có:
- Bố thí Ba-la-mật (布施, Sanskrit: dāna-pāramitā).
- Trì giới Ba-la-mật (持戒, Sanskrit: śīla-pāramitā).
- Nhẫn nhục Ba-la-mật (忍辱, Sanskrit: kṣānti-pāramitā).
- Tinh tấn Ba-la-mật (精進, Sanskrit: vīrya-pāramitā).
- Thiền định Ba-la-mật (禪定, Sanskrit: dhyāna-pāramitā).
- Trí huệ Ba-la-mật (智慧, Sanskrit: prajñā-pāramitā).
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúng mà thuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo,(1) khiến cho được rõ biết các pháp lành, được ánh sáng trí huệ, thấu hiểu Bốn thánh đế,(2) lại vì muốn giúp cho các vị Bồ Tát trong đời vị lai được nhập vào Tam-muội.(3) Nhập Tam- muội rồi sẽ vượt hơn cảnh giới của hàng Thanh văn và Bích- chi Phật, đối với quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề(4) không còn thối chuyển.
Lúc bấy giờ, có các vị Bồ Tát như Bồ Tát Di-lặc, Bồ Tát Vô Si Kiến, Bồ Tát Thủy Thiên, Bồ Tát Sư Tử Ý, Bồ Tát Nhật Quang… những vị Bồ Tát đứng đầu như vậy có đến mười ngàn vị, cùng đứng dậy từ chỗ ngồi, trần vai áo bên phải,(5) quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng về phương đông nam, hết lòng hoan hỷ, cung kính chiêm ngưỡng rồi niệm rằng:
(1)Bốn điên đảo (Tứ điên đảo): có hai loại, một là bốn điên đảo của phàm phu, hai là bốn điên đảo của hàng Nhị thừa. Phàm phu sống trong thế gian vô thường mà cho đó là thường, chịu mọi khổ não mà cho đó là vui, thế gian bất tịnh, nhơ nhuốc mà cho đó là thanh tịnh, trong sạch, thế gian không có thật ngã mà kể cho đó là bản ngã. Đối với hàng Nhị thừa, tuy đã thoát những nỗi khổ của phàm phu nhưng vẫn chưa được giải thoát rốt ráo, còn bị vô minh che lấp, nên đối với Niết-bàn của chư Phật là thường tồn mà cho là vô thường, thường vui mà cho là không có gì vui, có chân ngã mà cho là vô ngã, thường thanh tịnh mà cho là bất tịnh. Đó gọi là Bốn điên đảo của hàng Nhị thừa.
(2)Bốn thánh đế, tức là Tứ diệu đế, bốn sự thật hiển nhiên, bốn chân lý tuyệt đối trong thế gian. Bốn thánh đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Bốn thánh đế là giáo pháp căn bản của hàng Tiểu thừa, có thể giúp người tu tập chứng đắc đến quả vị A-la-hán.
(3)Tam-muội, Phạn ngữ là samādhi, cũng đọc là Tam-ma-đề, chỉ trạng thái chú tâm vào một đối tượng duy nhất, không còn bị loạn động do ngoại cảnh, nên cũng gọi là định. Chỉ quán luận, quyển 2 viết: “Đem tâm hợp với pháp, lìa hết mọi tà loạn, gọi là tam-muội.”
(4)A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, Phạn ngữ là anuttara-samyak-saṃbodhi, dịch nghĩa là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, được dùng để chỉ quả vị Phật hay cảnh giới giải thoát rốt ráo.
(5)Trần vai áo bên phải: một nghi thức để tỏ lòng tôn kính trước khi thưa hỏi chuyện gì.
“Nam-mô(1) Liên Hoa Tôn(2) Đa-đà-a-già-độ,(3) A-la-ha,(4) Tam-miệu Tam-phật-đà!(5) Nam-mô Liên Hoa Tôn, Đa-đà- a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-phật-đà!(6) Đức Thế Tôn thật ít có thay! Ngài thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề chưa bao lâu mà đã có thể thị hiện vô số các phép thần thông biến hóa, khiến cho vô số chúng sinh được gieo trồng căn lành, đối với quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ- đề không còn thối chuyển.”
Bấy giờ, trong chúng hội có vị Đại Bồ Tát tên là Bảo Nhật Quang Minh, từ chỗ ngồi đứng dậy trần vai áo bên phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng về đức Phật thưa hỏi rằng: “Bạch Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà các vị Bồ Tát như Bồ Tát Di-lặc, Bồ Tát Vô Si Kiến, Bồ Tát Thủy Thiên, Bồ Tát Sư Tử Ý, Bồ Tát Nhật Quang… những vị Bồ Tát đứng đầu như vậy có đến mười ngàn vị, cùng đứng dậy từ chỗ ngồi, trần vai áo bên phải, quỳ gối phải sát đất, chắp tay hướng về phương đông nam, hết lòng hoan hỷ, cung kính chiêm ngưỡng rồi niệm rằng: ‘Nam-mô Liên Hoa Tôn Đa- đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam-phật-đà! Nam-mô
(1)Nam-mô: phiên âm từ Phạn ngữ là Namah, trong kinh chú nhiều khi cũng đọc là nẵng-mồ, được dùng với ý cung kính, quy thuận nên cũng được dịch là “quy mạng”, “kính lễ” hay “quy lễ”.
(2)Liên Hoa Tôn: danh hiệu của một vị Phật trong quá khứ mà các vị Bồ Tát này
đang xưng tán.
(3)Đa-đà-a-già-độ, phiên âm từ Phạn ngữ là Tathāgata, là một trong mười hiệu của Phật, dịch nghĩa là Như Lai. Kinh Kim Cang có câu: “Không từ đâu đến, cũng không đi về đâu nên gọi là Như Lai.” (無所從來亦無所去故名如來。 – Vô sở tùng lai diệc vô sở khứ cố danh Như Lai.)
(4)A-la-ha, phiên âm từ Phạn ngữ là Arhat, dịch nghĩa là “ứng cúng”, nghĩa là xứng đáng nhận lãnh sự cúng dường của chúng sinh. Đây là một trong mười danh hiệu của Phật.
(5)Tam-miệu Tam-phật-đà, phiên âm từ Phạn ngữ Samyak-saṃbuddha, dịch nghĩa là Chánh đẳng giác, là danh hiệu thứ ba trong mười danh hiệu của Phật.
(6)Cả hai câu này bày tỏ sự tôn kính, ngưỡng mộ đối với Phật, nên dùng các danh hiệu của Phật để tôn xưng.
Liên Hoa Tôn, Đa-đà-a-già-độ, A-la-ha, Tam-miệu Tam- phật-đà! Đức Thế Tôn thật ít có thay! Ngài thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề chưa bao lâu mà đã có thể thị hiện vô số các phép thần thông biến hóa, khiến cho vô số chúng sinh được gieo trồng căn lành.’
“Bạch Thế Tôn! Đức Phật Liên Hoa Tôn ở cách nơi này gần hay xa? Ngài thành đạo đến nay đã bao lâu? Cõi nước của ngài tên gọi là gì? Lấy gì để trang nghiêm? Đức Phật Liên Hoa Tôn vì sao lại thị hiện đủ các phép biến hóa? Phải chăng khi chư Phật thị hiện vô số các phép thần thông biến hóa trong mười phương thế giới, có các Bồ Tát nhìn thấy được, còn riêng con thì không?”
Bấy giờ, Phật bảo Bồ Tát Bảo Nhật Quang Minh rằng: “Lành thay, lành thay! Thiện nam tử! Câu hỏi của ông thật là quý giá như trân bảo, thật là hiền thiện, thật là khéo biện luận, thật là khéo thưa hỏi! Nay ông có thể thưa hỏi Như Lai về nghĩa nhiệm mầu như vậy, vì muốn giáo hóa cho vô số chúng sinh được gieo trồng căn lành, muốn được hiển bày cảnh giới của đức Phật Liên Hoa Tôn với đủ mọi sự trang nghiêm. Thiện nam tử! Nay ta sẽ thuyết giảng. Ông hãy lắng nghe, lắng nghe. Hãy khéo suy ngẫm! Hãy khéo nhận lãnh!”
Bồ Tát Bảo Nhật Quang Minh khi ấy hết lòng hoan hỷ lắng nghe lời dạy.
Đức Thế Tôn liền bảo Bồ Tát Bảo Nhật Quang Minh rằng: “Thiện nam tử! Về hướng đông nam, cách đây một ức trăm ngàn cõi Phật, có cõi Phật tên là Liên Hoa với đủ mọi sự trang nghiêm tốt đẹp, có các loại hương thơm bay khắp nơi, các loài cây quý mọc lên tô điểm cho đủ loại núi quý, mặt đất có màu xanh biếc như lưu ly. Cõi Phật ấy có vô số các vị Bồ Tát trong khắp cõi nước, có tiếng hay lạ thuyết giảng pháp lành vang vọng khắp nơi. Mặt đất mềm mại êm ái như loại vải của chư thiên cõi trời, khi đi bàn chân lún sâu vào đất đến bốn tấc, lúc nhấc chân lên thì mặt đất tự nhiên khép lại và sinh ra đủ các loại hoa sen.
“Cây cối bằng bảy món báu,(1) cao đến bảy do-tuần,(2) trên các cành cây tự nhiên có áo cà-sa cõi trời treo lơ lửng. Nơi cõi Phật ấy thường được nghe tiếng âm nhạc của chư thiên. Trong tiếng chim hót thường vang ra những âm thanh diễn thuyết nhiệm mầu về các pháp căn,(3) lực(4) và giác ý.
(1)Bảy món báu: gồm có vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu và mã não.
(2)Do-tuần: đơn vị đo chiều dài, phiên âm từ Phạn ngữ là yojana, cũng đọc là du- thiện-na hay du-xá-na, có nơi còn gọi là do-diên, cũng đều là phiên âm chữ này. Các sách chú về đơn vị này rất khác biệt nhau, có sách nói là 40 dặm, có sách nói 30 dặm, lại có sách cho là chỉ có 16 dặm. Nhưng nếu theo tương quan với các đơn vị cổ của Ấn Độ mà xét thì một do-tuần có 8 câu-lư-xá, một câu-lư-xá là khoảng cách tối đa còn có thể nghe được tiếng rống của một con trâu lớn.
(3)Căn: tức là năm căn (ngũ căn – 五根Sanskrit: pađca-indriya): Năm pháp căn bản làm nảy sinh các thiện pháp khác, nên còn gọi là Năm căn lành, gồm có:
- Tín căn (信根): sự tin tưởng vào Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) và Bốn chân lý (Tứ diệu đế: Khổ, Tập, Diệt, Đạo).
- Tinh tấn căn (精進根), hay Cần căn, là sự dũng mãnh tinh tấn trong việc tu tập các thiện pháp.
- Niệm căn (念根), lòng nghĩ nhớ, niệm tưởng đến Chánh pháp.
- Định căn (定根), nhiếp giữ tâm định mà không mất.
- Huệ căn (慧根), trí huệ suy xét, hiểu rõ được chân lý.
(4)Lực: tức là ngũ lực (五力- năm sức), bao gồm:
- Tín lực (信力, Sanskrit: śraddhābala): có đức tin mạnh mẽ vào Chánh pháp, từ bỏ những sự tin tưởng sai lầm.
- Tinh tấn lực (精進力, Sanskrit: vīryabala): năng lực tu trì Bốn tinh tấn, hay Bốn chánh cần (Sanskrit: sayak-prahanani) để diệt trừ bất thiện pháp.
- Niệm lực (念力, Sanskrit: smṛtibala): sức mạnh do sự hành trì Bốn niệm xứ mang lại, có thể phá được các tà niệm.
- Định lực (定力, Sanskrit: samādhibala): sức mạnh do thiền định (Sanskrit: dhyāna) mang lại, loại bỏ được mọi tham ái.
(1) Những cành lá trên cây chạm vào nhau tạo thành âm thanh hay lạ, hơn cả các loại âm nhạc ở hai cõi trời, người. Hương thơm từ mỗi rễ cây tỏa ra đều thơm hơn cả hương của chư thiên, tỏa khắp quanh đó đến hơn một ngàn do- tuần. Trên cây có những chuỗi ngọc anh lạc của chư thiên treo lơ lửng. Lại có lầu bằng bảy báu cất lên cao đến hơn năm trăm do-tuần, bề rộng ở giữa đến cả trăm do-tuần. Những lan can bao quanh lầu đều được làm bằng bảy món báu. Bốn phía lầu đều có hồ nước lớn, dài tám mươi do- tuần, rộng năm mươi do-tuần. Quanh những hồ nước ấy đều có các bậc thềm làm đường đi lên, chỉ thuần bằng bảy báu. Trong hồ nước lại có bốn loại hoa sen là hoa ưu-bát- la, hoa câu-vật-đầu, hoa ba-đầu-ma và hoa phân-đà-lợi.(2) Mỗi bông hoa có đường kính rộng đến một do-tuần.
“Vào lúc đầu hôm có các vị Bồ Tát sinh ra từ giữa đài hoa, ngồi kết già(3) nơi ấy mà tận hưởng niềm vui giải thoát. Vừa quá nửa đêm, có gió từ bốn phương thổi đến, êm dịu và thơm tho, chạm nhẹ vào thân các vị Bồ Tát. Gió ấy thổi khắp mọi
(1)Tức là bảy giác ý (thất giác ý七覺意- Sanskrit: saptabodhyaṅga), cũng gọi là bảy
Huệ lực (慧力, Sanskrit: prajñābala): sức mạnh nhờ phát khởi tri kiến về Tứ diệu đế, phá tan được các lậu hoặc trong ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.
thánh giác (thất thánh giác), hay bảy phần Bồ-đề (thất Bồ-đề phần), bảy phần giác, gồm có:
- Trạch pháp (擇法, Sanskrit: dharmapravicaya)
- Tinh tấn (精進, Sanskrit: vīrya)
- Hỷ (喜, Sanskrit: prīti)
- Khinh an (輕安, Sanskrit: praśabdhi)
- Niệm (念, Sanskrit: smṛti)
- Định (定, Sanskrit: samādhi)
- Xả (捨, Sanskrit: upekṣā)
(2) Đây là bốn loại hoa sen quý có bốn màu khác nhau, hoa ưu-bát la màu xanh, hoa câu-vật-đầu màu vàng, hoa ba-đầu-ma màu đỏ và hoa phân-đà-lợi màu trắng. (3)Ngồi kết già: tư thế ngồi xếp bằng tréo chân, chân trái ở trên đùi phải và chân phải ở trên đùi trái. Nếu để chân trên chân dưới thì gọi là bán già.
nơi, có thể làm cho những đóa hoa còn đang khép kín phải nở rộ ra. Lúc bấy giờ, các vị Bồ Tát ra khỏi Tam-muội, lại tiếp tục hưởng niềm vui giải thoát. Các ngài rời khỏi đài sen để lên lầu cao, ngồi nơi tòa bằng bảy báu mà lắng nghe chánh pháp nhiệm mầu.
“Bốn phía vây quanh nơi ấy đều có những quả núi bằng loại vàng ròng sắc đỏ tía quý nhất,(1) cao đến hai mươi do- tuần, ngang dọc bằng nhau đến ba do-tuần,(2) trên núi có vô số các loại trân bảo, ngọc lưu ly màu xanh biếc, màu đỏ, ánh sáng lấp ánh xen lẫn nhau.
“Bấy giờ, đức Phật Liên Hoa Tôn dùng ánh hào quang sáng rực hòa cùng ánh sáng của các loại trân bảo chiếu rõ cõi Phật ấy. Ánh sáng nơi cõi Phật ấy là mầu nhiệm, tinh tế bậc nhất nên không còn thấy mặt trời, mặt trăng, cũng không phân biệt được đêm ngày, chỉ xem những cánh hoa
(1)Nguyên văn là “Diêm-phù-đàn tử ma kim”. Luận Niết-bàn viết: “Vàng Diêm- phù-đàn có 4 loại, một là màu xanh, hai là màu vàng, ba là màu đỏ, bốn là màu đỏ tía. Loại màu đỏ tía là màu bao gồm hết các màu kia.” Loại vàng này là loại quý nhất, gọi là vàng tử ma, tử là chỉ màu đỏ tía, ma là chỉ độ tinh sạch, thuần khiết không lẫn tạp chất.
(2)Chúng tôi nhận thấy ở đây có phần không ổn về văn nghĩa. Tuy đã đối chiếu nhiều bản Hán văn khác nhau nhưng đều thấy mô tả ngọn núi này là “高二十由旬。縱廣正等滿三由旬” (cao 20 do-tuần, ngang dọc bằng nhau đều 3 do-tuần). Chúng tôi đoán chắc là đã có sai sót trong các bản khắc Hán văn, nhưng không dám tùy tiện sửa chữa, chỉ nêu ra đây để độc giả cân nhắc. Thứ nhất, bề ngang dọc là quá nhỏ so với chiều cao của núi. Thứ hai, đoạn bên dưới nói rằng trên núi ấy có đài cao đến 60 do-tuần, hai bề ngang dọc bằng nhau đến 20 do-tuần, như vậy đài này lớn rộng hơn cả ngọn núi. Hoàn toàn không hợp lý. Theo thiển ý của chúng tôi, rất có thể chữ千(thiên – một ngàn) đã bị khắc nhầm thành chữ十(thập – mười). Nếu đúng vậy, chiều cao của núi phải là hai ngàn do tuần thì hợp lý hơn. Và như vậy, ở chiều rộng có thể đã sót mất một chữ nào đó chứ không thể chỉ có mỗi chữ三(tam – ba). Chẳng hạn, có thể là三百 (tam bách) hoặc三千 (tam thiên).
khép lại và loài chim đậu lên cành nghỉ để biết ngày giờ.(1) Trên núi báu ấy lại có đài cao xinh đẹp bằng ngọc lưu ly màu xanh biếc, cao đến sáu mươi do-tuần, hai bề ngang dọc bằng nhau là hai mươi do-tuần. Bốn phía quanh đài đều có lan can làm bằng bảy báu. Ngay giữa đài có những giường quý cũng làm bằng bảy báu. Mỗi giường đều có một vị Bồ Tát Nhất sinh,(2) ngồi trên giường lắng nghe và thọ nhận chánh pháp.
“Thiện nam tử! Cõi Phật ấy có cây Bồ-đề tên gọi là Nhân- đà-la,(3) cao đến ba ngàn do-tuần, đường kính thân cây đến năm trăm do-tuần, cành lá rộng ra đến một ngàn do-tuần. Bên dưới cây ấy có hoa sen, cuống hoa bằng ngọc lưu ly cao năm trăm do-tuần. Mỗi một đóa hoa đều có một triệu cái lá bằng vàng cao đến năm do-tuần, đài hoa bằng mã não, tua hoa bằng bảy món báu, cao đến mười do-tuần, hai bề ngang dọc đều rộng đến bảy do-tuần.
“Bấy giờ, đức Phật Liên Hoa Tôn ngồi trên đóa hoa ấy, chỉ qua một đêm mà thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Bao quanh đóa hoa dưới cội Bồ-đề ấy lại có đủ các loại hoa sen khác, mỗi đóa hoa sen đều có các vị Bồ Tát ngồi trên đó mà nhìn thấy đức Phật Liên Hoa Tôn hiện đủ các phép thần thông biến hóa.”
Khi đức Phật Thích-ca Mâu-ni thuyết dạy việc này xong,
Bồ Tát Bảo Nhật Quang Minh liền bạch Phật rằng: “Bạch
(1)Vì ánh sáng không phân biệt giữa đêm ngày nên phải xem lúc hoa khép lại và chim đậu nghỉ trên cành mà biết là đã hết ngày.
(2)Bồ Tát Nhất sinh: tức Bồ Tát Nhất sinh bổ xứ, là vị Bồ Tát đã tu tập viên mãn, đạt địa vị cao nhất trong hàng Bồ Tát, chỉ còn một lần đản sinh là sẽ thành tựu quả Phật.
(3)Nhân-đà-la: Phạn ngữ là Indra, dịch nghĩa là “thiên chủ”.
Thế Tôn! Đức Phật Liên Hoa Tôn dùng tướng mạo gì để thực hiện các phép biến hóa? Xin đức Thế Tôn thuyết dạy.”
Đức Phật bảo Bồ Tát Bảo Nhật Quang Minh: “Thiện nam tử! Đức Phật Liên Hoa Tôn chỉ qua một đêm đã thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề. Đức Phật ấy vừa quá nửa đêm thì thị hiện các phép thần túc biến hóa, hiện thân cao đến tận cõi trời Phạm thiên, từ tướng nhục kế(1) trên đỉnh đầu phóng ra sáu mươi ức na-do-tha(2) trăm ngàn đạo hào quang, chiếu về phương trên đến vô số cõi Phật nhiều như số hạt bụi nhỏ.
“Bấy giờ, các vị Bồ Tát ở phương trên không còn nhìn thấy mọi hình sắc ở phương dưới, từ các núi Thiết-vi(3) cho đến các núi nhỏ, chỉ còn nhìn thấy các thế giới được chiếu sáng trong ánh hào quang của Phật. Trong các thế giới ấy có các vị Bồ Tát đều được thọ ký,(4) hoặc được các phép Đà- la-ni, Tam-muội Nhẫn nhục, hoặc được tiến lên địa vị Nhất sinh bổ xứ. Các vị Bồ Tát này đều tự thân có hào quang, nhưng do hào quang của Phật nên không thể hiển lộ. Toàn thể chúng hội như vậy đều chắp tay hướng về đức Phật Liên Hoa Tôn mà chiêm ngưỡng tôn nhan. Khi ấy, các vị
(1)Nhục kế: một trong ba mươi hai tướng quý của Phật, là cục thịt mềm trên đỉnh đầu, Phạn ngữ là Uṣṇīṣa, dịch âm là Ô-sắt-nị-sa, cũng gọi là Vô kiến đỉnh tướng. (2)Na-do-tha (Nayuta): từ chỉ số lượng của Ấn Độ thời cổ, thường dịch là “ức”, nhưng cách hiểu không giống nhau. Kinh Bổn hạnh, quyển 12, nói na-do-tha là một ngàn vạn, tức là mười triệu. Huyền ứng âm nghĩa, quyển 3, nói rằng na- do-tha cũng gọi là na-dữu-đa, tương đương với mười vạn, tức là một trăm ngàn. Chúng tôi cho rằng những số lượng này chỉ mang ý nghĩa biểu trưng mà thôi, thường là để diễn ý “rất nhiều”.
(3)Núi lớn bằng sắt thép vây quanh mỗi một tiểu thế giới, nên gọi là Thiết vi. Trong kinh có nói đến hai núi Thiết-vi là Đại Thiết-vi và Tiểu Thiết-vi.
(4)Thọ ký: sự ấn chứng của Phật đối với một vị Bồ Tát, xác quyết rằng vị ấy sẽ thành Phật vào một thời điểm nào đó trong tương lai.
chỉ còn nhìn thấy ba mươi hai tướng tốt(1) của Phật, chuỗi
(1)Ba mươi hai tướng tốt: (Sanskrit: dvātriṃśan mahā-puruṣa-lakṣaṇāni). Mỗi vị Phật đều có đủ ba mươi hai tướng tốt này. Đó là:
- Lòng bàn chân phẳng (Túc hạ an bình lập tướng足下安平立相, Sanskrit: supratiṣṭhita-pāda).
- Bánh xe pháp dưới lòng bàn chân (Túc hạ nhị luân tướng足下二輪相, Sanskrit: cakrāṅkita-hasta-pāda-tala).
- Ngón tay thon dài (Trường chỉ tướng長指相, Sanskrit: dīrghāṅguli).
- Bàn chân thon (Túc cân phu trường tướng足跟趺長相, Sanskrit: āyata- pāda-pārṣṇi).
- Ngón tay ngón chân cong lại (Thủ túc chỉ man võng tướng手足指 縵網相, Sanskrit: jālāvanaddha-hasta-pāda).
- Tay chân mềm mại (Thủ túc nhu nhuyễn tướng手足柔軟相, Sanskrit: mṛdu-taruṇa-hasta-pāda-tala).
- Sống (mu) bàn chân cong lên (Túc phu cao mãn tướng足趺高滿相, Sanskrit: ucchaṅkha-pāda).
- Cặp chân dài thon như chân sơn dương (Y-ni-diên-đoán tướng伊泥延踹相, Sanskrit: aiṇeya-jaṅgha).
- Đứng thẳng tay dài quá đầu gối (Chánh lập thủ ma tất tướng正立手摩膝相, Sanskrit: sthitānavanata-pralamba-bāhutā).
- Nam căn ẩn kín (Âm tàng tướng陰藏相, Sanskrit: kośopagata-vasti- guhya).
- Giang tay ra rộng dài bằng thân mình (Thân quảng trường đẳng tướng身廣長等相, Sanskrit: nyagrodha-parimaṇḍala).
- Lông đứng thẳng (Mao thượng hướng tướng毛上向相, Sanskrit: ūrdhvaṃga-roma)
- Mỗi lỗ chân lông có một cọng lông (Nhất nhất khổng nhất mao sinh tướng一一孔一毛生相, Sanskrit: ekaika-roma-pradakṣiṇāvarta).
- Thân có màu như màu vàng ròng (Kim sắc tướng金色相, Sanskrit: suvarṇa-varṇa).
- Thân phát sáng (Đại quang tướng大光相, cũng gọi là Thường quang nhất tầm tướng常光一尋相, Viên quang nhất tầm tướng圓光一尋相).
- Da mềm mại (Tế bạc bì tướng細薄皮相, Sanskrit: sūkṣma-suvarṇa- cchavi).
- Tay, vai và đầu tròn tương xứng (Thất xứ long mãn tướng七處隆滿相, Sanskrit: sapta-utsada).
- Hai nách đầy đặn (Lưỡng dịch hạ long mãn tướng兩腋下隆滿相, Sanskrit: citāntarāṃsa).
- Thân hình như sư tử (Thượng thân như sư tử tướng上身如獅子相, Sanskrit: siṃha-pūrvārdha-kāya).
- Thân hình thẳng đứng (Đại trực thân tướng大直身相, Sanskrit: ṛjugātratā).
- Hai vai đầy đặn mạnh mẽ (Kiên viên hảo tướng肩圓好相, susaṃvṛta- skandha).
- Bốn mươi cái răng (Tứ thập xỉ tướng四十齒相, Sanskrit: catvā-riṃśad- danta).
ngọc anh lạc trên thân và tám mươi vẻ đẹp trang nghiêm thân Phật.
“Các vị Bồ Tát nhìn thấy đức Phật Liên Hoa Tôn cùng với cõi thế giới đủ mọi vẻ trang nghiêm liền sinh lòng vui mừng. Bấy giờ, trong vô số cõi thế giới của chư Phật nhiều như số hạt bụi nhỏ, các vị Đại Bồ Tát được nhìn thấy hào quang biến hóa của đức Phật Liên Hoa Tôn cùng với cõi thế giới ấy rồi, mỗi vị đều tự lìa bỏ cõi nước của mình, tự dùng phép thần túc(1) mà cùng nhau đến hội nơi chỗ đức Phật ấy, đi quanh lễ bái và cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen.
“Thiện nam tử! Khi ấy đức Phật Liên Hoa Tôn nhìn thấy các vị Bồ Tát liền hiện tướng lưỡi rộng dài(2) phủ khắp các
- Răng đều nhau (Xỉ tề tướng齒齊相, Sanskrit: sama-danta).
- Răng trắng (Nha bạch tướng牙白相, Sanskrit: suśukla-danta).
- Hàm sư tử (Sư tử giáp tướng獅子頰相, Sanskrit: siṃha-hanu).
- Nước miếng có chất thơm (Vị trung đắc thượng vị tướng味中得上味相, Sanskrit: rasa-rasāgratā).
- Lưỡi rộng dài (Đại thiệt tướng大舌相, cũng gọi là Quảng trường thiệt tướng廣長舌相, Sanskrit: prabhūta-tanu-jihva).
- Tiếng nói tao nhã (Phạm thanh tướng梵聲相, Sanskrit: brahma-svara).
- Mắt xanh trong (Chân thanh nhãn tướng眞青眼相, Sanskrit: abhinīla- netra).
- Mắt tròn lớn tương tự như mắt bò (Ngưu nhãn tiệp tướng, 牛眼睫相, Sanskrit: go-pakṣmā).
- Lông trắng giữa cặp chân mày (Bạch mao tướng, 白毛相, Sanskrit: ūrṇā- keśa).
- Một khối thịt trên đỉnh đầu (Đảnh kế tướng頂髻相, Sanskrit: uṣṇīṣa-śiraskatā).
(1)Phép thần túc: tức Thần túc thông, là một trong Ngũ thông, cũng gọi là Thần cảnh trí chứng thông hay Thần cảnh thông. Bồ Tát chứng đắc phép thần túc có thể từ nơi này đi đến nơi khác tùy theo ý muốn.
(2)Tướng lưỡi rộng dài: một trong các tướng tốt của chư Phật. Tướng lưỡi rộng dài biểu hiện rằng chư Phật luôn nói ra những lời chân thật, không bao giờ nói lời hư dối, không đúng sự thật. Mỗi khi đức Phật hiện tướng này, thường là để xác tín cho một điều gì sắp thuyết dạy mà theo cách hiểu của hàng phàm phu và Nhị thừa là rất khó tin nhận. Như trong kinh A-di-đà, đức Phật cũng hiện tướng này trước khi thuyết dạy về cõi Cực Lạc ở thế giới phương Tây.
cõi Tứ thiên hạ(1) với hết thảy chúng sinh đang đi, đứng, ngồi… hoặc có các vị Bồ Tát đang nhập thiền định, vừa ra khỏi định liền đứng dậy giữa đại chúng, đi quanh lễ bái, cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen đức Phật Liên Hoa Tôn.
“Thiện nam tử! Đức Phật ấy sau khi hiện tướng lưỡi rộng dài như vậy rồi, liền thâu lại như bình thường.
“Thiện nam tử! Sau đó đức Phật Liên Hoa Tôn lại phóng ra hào quang từ các lỗ chân lông trên thân mình. Mỗi một lỗ chân lông đều phát ra sáu mươi ức na-do-tha trăm ngàn đạo hào quang rực sáng. Ánh sáng mầu nhiệm ấy chiếu khắp mười phương, mỗi một phương đều soi thấu vô số cõi Phật thế giới nhiều như số hạt bụi nhỏ. Trong mỗi thế giới ấy đều có các vị Bồ Tát được thọ ký, hoặc được phép Đà-la- ni, Tam-muội Nhẫn nhục, hoặc được tiến lên địa vị Nhất sinh bổ xứ. Các vị Bồ Tát ấy nhìn thấy hào quang của Phật rồi, mỗi vị đều từ bỏ cõi thế giới của mình, nương theo sức thần thông của Phật mà cùng đến hội nơi cõi Phật Liên Hoa Tôn, cùng nhau đi quanh lễ bái và cúng dường tôn trọng, cung kính ngợi khen.
“Thiện nam tử! Lúc bấy giờ, đức Phật ấy sau khi đã hiện phép biến hóa như vậy rồi, liền thâu nhiếp thần lực, rồi vì
(1)Cõi Tứ thiên hạ, chỉ phạm vi của mỗi một cõi thế giới, chia làm bốn phần theo bốn phương. Như cõi thế giới Ta-bà của chúng ta được chia ra làm Đông Thắng Thần châu, Tây Ngưu Hóa châu, Nam Thiệm Bộ châu và Bắc Câu Lô châu. Bốn phần này được gọi chung là Tứ thiên hạ. các vị Bồ Tát và đại chúng mà giảng thuyết chánh pháp, chuyển bánh xe chánh pháp không còn thối chuyển, vì muốn cho vô số chúng sinh được lợi ích lớn, được niềm vui lớn. Ngài thương xót tất cả thế gian nên muốn vì hàng trời, người mà ban cho đầy đủ giáo pháp Đại thừa cao trổi nhất!”