Đừng Quá Tỉnh Táo!
Câu hỏi thứ nhất:
Osho thân mến,
“Sự khác biệt giữa Tánh Không của một đứa trẻ trước khi bản ngã của nó thành hình và tánh chất tỉnh thức hoàn toàn trong sáng vô tư như một đứa trẻ của Phật là như thế nào?”
Có sự giống nhau và có sự khác nhau. Thực ra, đứa trẻ là một vị Phật, nhưng Phật tánh của nó, tánh giác ngộ của nó, sự ngây thơ vô tư của nó vốn là tự nhiên, vốn dĩ đã có, không phải là sự thâu hái gặt quả. Sự ngây thơ của nó là một tánh chất, là một loại vô minh, chứ không phải là sự thành đạt tu trì. Sự ngây thơ của nó không có ý thức – đứa trẻ đó không ý thức, không quan tâm chút nào về tỉnh thức. Sự ngây thơ của đứa trẻ vốn sẵn có, vốn đã hiện diện nhưng đứa trẻ đã lãng quên, vô ý thức. Nó sẽ đánh mất sự ngây thơ vô tư đó. Nó phải mất. Thiên đường tuổi thơ sớm hay muộn gì rồi cũng sẽ bị mất; đứa trẻ đang đi trên con đường đánh mất tuổi thơ. Đứa trẻ nào cũng đều đi qua những cửa ngõ đỗ vỡ, bất tịnh – đó là cuộc đời, là thế giới chúng ta đang sống.
Sự ngây thơ của đứa bé là sự ngây thơ của Adam trước khi bị trục xuất ra khỏi vườn Địa Đàng, là sự ngây thơ trước khi Adam nếm thử Trái Cấm Tri Thức, là sự ngây thơ trước khi Adam có ý thức. Nó giống như bản năng của loài thú vật. Anh hãy nhìn vào mắt của bất cứ giống vật nào – một con bò, một con chó – anh thấy gì không? Đó, ở đôi mắt con bò, con chó đó, có sự trong sáng, ngây thơ, cái tánh chất trong sáng ngây thơ vốn từng hiện hữu trong đôi mắt một vị Phật, nhưng duy có một sự khác biệt giữa nhau.
Sự khác biệt đó thật khác, thật xa nhau, khác hoàn toàn và mông mênh: đó là vị Phật đã “trở về nhà,” còn loài vật thì “chưa rời khỏi nhà.”
Đứa trẻ vẫn ở vườn địa đàng, vẫn còn ở thiên đường. Nó sẽ mất thiên đường – bởi vì khi được một cái gì thì đổng thời ta sẽ mất đi một cái gì đó, bù lại.
Phật đã trở về nhà . . . sau khi đi một vòng thật tròn đầy. Phật đã bỏ đi, đã lạc bước, đã thất lạc, Phật đã rớt xuống tận cùng hố thẳm của tội lỗi, của đói khát, khổ đau, của địa ngục. Những “kinh nghiệm sống sót” sau những lần rơi xuống đó là một phần của sự trưởng thành và khôn lớn. Không có những kinh nghiệm đau thương đó, bộ xương của anh sẽ không có cứng cáp đâu, anh sẽ oặt ẹo, không có xương sống; có nghĩa là anh không có cái cột trụ nào để chống đỡ cả. Không có những kinh nghiệm thăng trầm biến đổi đó, sự ngây thơ của anh rất mong manh, nó không thể chịu đựng nổi sóng gió, bão tố cuộc đời. Nó rất yếu, nó không thể sống sót được. Sự ngây thơ trong trắng của anh phải chịu đi xuyên qua ngọn lửa cuộc sống – anh sẽ mắc phải một ngàn lẻ một lỗi lầm, một ngàn lẻ một lần anh bị rơi tòm xuống hố, nhưng rồi anh sẽ ngóc cổ đứng dậy trở lại được. Tất cả những kinh nghiệm đó, từ từ, từ từ sẽ làm anh chín muồi, sẽ làm anh khôn lớn chững chạc, và anh sẽ trưởng thành.
Sự ngây thơ của Phật là sự ngây thơ của một người đã trưởng thành, hoàn toàn trưởng thành. Cái tánh chất trẻ con là một vòng tròn không có trọng điểm nào ở trung tâm cả. Phật tánh cũng là một vòng tròn, một chu vi nhưng trụ rễ lại ở ngay trung tâm. Tánh chất trẻ con là không tên, một nặc danh không có ý thức. Phật tánh cũng nặc danh nhưng có ý thức. Cả hai đều vô sắc, vô danh . . nhưng đứa trẻ thì chưa biết gì về hình thái và khổ đau của sự không tỉnh thức. Nó cũng giống như anh chưa bao giờ ở tù nên anh không hiểu được tự do là gì, tự do qúi báu như thế nào. Và rồi anh bị ở tù nhiều năm hay nhiều đời, và một ngày kia, anh được phóng thích . . . anh rakhỏi tù, anh nhẩy, anh hát, anh ca; thật tuyệt diệu, ôi vô cùng tuyệt diệu! Và anh ngạc nhiên xiết bao khi anh thấy có người sống ở ngoài cửa ngục, đi đứng tự nhiên trên đường, đi đến sở làm, đến công xưởng, đến văn phòng . . . nhưng họ không hưởng thụ được tự do một chút nào – họ đã lãng quên, họ không biết rằng họ đang sung sướng được tự do. Làm sao họ biết được? Bởi vì họ chưa hề ở tù nên họ không biết cái đau khổ bị mất tự do; nền tảng của sự nhận thức của họ đã mất. Cũng giống như anh viết bằng phấn trắng lên trên bức tường mầu trắng – không có một ai có thể đọc được anh đã viết những gì. Anh sẽ nói gì với họ đây – bởi vì ngay cả chính anh, anh cũng không đọc được anh đã viết những gì.
Tôi có nghe một câu truyện dí dỏm về Mulla Nasruddin. Ông là người duy nhất trong làng biết viết; vì thế mọi người thường hay đến tìm ông để nhờ ông viết thơ, viết đơn từ, v.v. Ông là người duy nhất biết viết chữ. Một ngày kia, có một người đến nhà nhờ Nasruddin viết dùm cho một lá thơ theo lời hắn ta đọc – và lá thơ thật dài, dài lê thê – cuối cùng, người đàn ông đó nói với Nasruddin, “Ông vui lòng đọc lại tôi nghe, bởi vì tôi muốn chắc chắn rằng tất cả những gì tôi muốn nói đều được viết hết trong thơ, tôi không quên điều gì và ông cũng không bỏ sót hay viết lộn xộn một cái gì.”
Mulla trả lời: “Bây giờ mới thực là khó khăn đấy. Tôi biết viết nhưng khổ quá, lại không biết đọc. Vả lại hơn nữa, lá thơ này không phải gởi cho tôi, cho nên thật không phải phép, không lịch sự để đọc lá thơ này.”
Người kia đuối lý, bị thuyết phục, ý kiến của Nasruddin hoàn toàn đúng và hắn ta chỉ còn nước nói, “Phải, ông nói chí phải – lá thơ không phải gởi cho ông.”
Nếu anh viết bằng phấn trắng trên bức tường trắng, chính anh cũng không đọc được, nhưng nếu anh viết trên bảng đen thì tất cả những gì anh viết đều hiện rõ ràng – anh có thể đọc được. Đó, sự tương phản cần có nhau để hiện khởi. Đứa trẻ không có sự tương phản; đứa trẻ làdãi lụa bạc trắng không có một đốm đen; tâm hồn đứa trẻ vô ý thức dưới bất cứ tình huống trạng thái nào; nhưng Đức Phật là dãi lụa bạc trắng tinh trong vầng mây đen ám, tỉnh thức trong từng sát na mọi trạng huống thay đổi của tâm.
Ban ngày, những ngôi sao đã có trên bầu trời, các ngôi sao không biến đi đâu hết, chúng không di chuyển nhanh dễ sợ vậy đâu, chúng không thể biến mất. Cả ngày chúng vẫn có ở trên trời, nhưng anh không thể thấy chúng. Nhưng đến ban đêm, anh thấy các vì sao rõ hơn bởi vì có màn đêm tương phản. Hoàng hôn càng dần thấp xuống, càng xuống thấp, những ngôi sao lấp lánh hiện rõ ra trên bầu trời.
Đứa trẻ có sự ngây thơ nhưng không có một cái nền tảng, một cái phông gì cả. Anh không thể thấy sự ngây thơ, anh không thể đọc được sự ngây thơ, anh không thấy gì cả vì không có sự đối nghịch tương phản. Một vị Phật thì đã sống trọn cả cuộc đời, đã làm tất cả những gì cần làm – tốt và xấu – đã chạm đến cái cực điểm, đã là một người tội lỗi, một vị thánh. Hãy nhớ là, một vị Phật không phải chỉ là thánh nhân đâu nhé; Phật có thể là một người tội lỗi, và cũng đã là một vị thánh. Chân Như Phât Tánh là vượt qua cả thánh – phàm, tội lỗi – trong sạch. Và bây giờ, vị Phật đó đã “trở về.” Hãy nhớ là, Phật có nghĩa là “giác ngộ, là thức tỉnh!”
Đó là lý do Phật đã thuyết trong bản kinh ngày hôm qua: “Na jhanam, na praptir na – apraptih – Vô Khổ, Tập, Diệt, Đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố . . .” Không có trí, không có đắc, không có cả cái không chứng đắc. Khi Phật chứng đắc đại giác, có người đã hỏi Phật, “Ngài chứng đắc gì vậy?” Phật đã cười, nói rằng, “Ta không chứng đắc gì cả – Ta chỉ khám phá cái gì đã tiềm tàng sẵn có trong ta. Ta chỉ đơn giản “trở về.”
Ta đã thấy cái gì luôn vẫn ở trong ta, chân thật là của ta. Ta không bám víu chấp thủ vào cái đó, Ta chỉ đơn giản nhận diện ra nó. Đó không phải là sự khám phá, mà đó là sự nhận diện trở lại, sự tái khám phá. Khi nào ngươi đạt được qủa vị giác ngộ, ngươi sẽ thấy hiểu được điều đó – không có chứng đắc gì cả khi đạt qủa vị giác ngộ. Bất thình lình ngươi thấy đó chính là Bản Tánh uyên nguyên của ngươi.
Nhưng để thấy được chân tâm thường hằng đó, ngươi phải lạc bước, ngươi phải xuống sâu tận cùng cơn trốt xoáy của dòng sống. Ngươi phải nhẩy vào tất cả những nơi chốn và không gian bùn lầy ô nhiễm, chỉ để thấy Tánh Trong Sáng Tuyệt Đối của ngươi, Tánh Thanh Tịnh Vô Nhiễm của ngươi.”
Xem tiếp