Tịnh Độ Cảnh Ngữ – Thích Minh Thành ( Phần 2 )

tịnh độ cảnh ngữ

Dạy cư sĩ Hạ Tử Di

Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Ở thế giới Ta-bà tu hành một ngày đêm, hơn ở thế giới Cực Lạc làm lành trăm năm”.

Bởi vì cõi nầy khó tiến tu, còn cõi kia dễ thành tựu công hạnh. Theo đây mà nói, thì trên đường đời phong trần tu hành một ngày, hơn ở chùa am thanh tịnh, nơi núi sâu tu hành trăm ngàn ngày. Điều này thật không nghi!

Thế nên, kinh thành vẫn có thể dạo, hồng trần vẫn có thể vào, đó gọi là tịnh nguyện không thể quên, tịnh hạnh không được khuyết.

Than ôi!

Phong trần sao đâu thể nào làm ô nhiễm người, chỉ e người tự nhiễm phong trần mà thôi!

Cư sĩ căn lành sâu dày, lòng tin chuyên tâm dốc sức, từ lâu đã biết: “Tuyển cử làm quan không bằng tuyển cử làm Phật”. Việc làm quan này vốn là bất đắc dĩ mà thôi, song trường tuyển Phật mở thì có thể vào.

Chẳng luận chùa thanh tịnh nơi núi sâu hay đường đời phong trần, chỉ cần tâm nguyện làm người chỉ dẫn phương hướng chân chính đi phía trước. Nếu giữ vững chí hướng của mình thì tuy trọn ngày ở trên đường đời phong trần mà đâu khác gì ở yên trong nhà; Trường An và nơi đây cũng chẳng cách một mảy trần. Mặc cho thân xác này xông pha nóng lạnh, trải qua châu huyện, trước tác văn chương, ngồi trên lưng ngựa, nơi đâu cũng là đạo tràng, lúc nào cũng là Phật sự.

Tịnh nguyện, tịnh hạnh thường được hiện tiền, tự nhiên đạt đến cõi thanh tịnh, diện kiến Di-đà, dự vào hàng Cửu phẩm, tiến đến tận Thập trụ[1], Thập hạnh[2], Thập hồi hướng[3], Thập địa[4]. Đợi chư Phật trong mười phương ngừng giáo hóa, sau đó phân thân bổ xứ, thi hành hiệu lệnh, thống lý người trời trong chín pháp giới, điều hòa thuần thục đệ tử bằng bảy phương tiện[5].

Tuyển cử làm quan, tuyển cử làm Phật như thế đâu chẳng phải thật là đại trượng phu sao? Song mà, nói thì dễ làm thì khó, tu hành nơi chùa thanh tịnh trong núi sâu thì dễ, còn tu hành nơi đường đời phong trần thì khó.

Tôi mong cư sĩ làm điều khó ấy, ngày sau ắt được thành tựu lớn. Hãy gắng sức ở nơi tâm niệm hiện giờ.

Thời gian mau chóng, già suy mỗi ngày đến gần, qua lại trên đường dài, đừng bỏ phí thời gian. Ngoài thời khóa quy định ra, có dư thời giờ chỉ nên trì thêm danh hiệu Phật, còn các pháp môn khác như chú Lăng-nghiêm, chú Đại Bi… đều không quan trọng.

[1] Thập trụ: mười trụ trong quá trình tu hành của Bồ-tát, tức từ địa vị 11 đến 20 trong 52 địa vị Bồ-tát. Đó là: 1. Sơ Phát Tâm Trụ; 2. Trị Địa Trụ; 3. Tu Hành Trụ; 4. Sinh Quý Trụ; 5. Phương Tiện Cụ Túc Trụ; 6. Chánh Tâm Trụ; 7. Bất Thoái Trụ; 8. Đồng Chân Trụ; 9. Pháp Vương Tử Trụ và 10. Quán Đảnh Trụ.

[2] Thập hạnh: mười hạnh lợi tha mà hàng Bồ-tát từ giai vị thứ 21 đến giai vị thứ 30 phải tu tập. Đó là: 1. Hoan hỷ hạnh; 2. Nhiêu ích hạnh; 3. Vô sân hận hạnh; 4. Vô tận hạnh; 5. Ly si loạn hạnh; 6. Thiện hiện hạnh; 7. Vô trước hạnh; 8. Tôn trọng hạnh; 9. Thiện pháp hạnh và 10. Chân thật hạnh.

[3] Thập hồi hướng: mười địa vị, từ địa vị thứ 31 đến 40 trong 52 địa vị tu hành của Bồ-tát. Đó là: 1. Cứu Hộ Nhất Thiết Chúng Sinh Ly Chúng Sinh Tướng Hồi Hướng; 2. Bất Hoại Hồi Hướng; 3. Đẳng Nhất Thiết Phật Hồi Hướng; 4. Chí Nhất Thiết Xứ Hồi Hướng; 5. Vô Tận Công Đức Tạng Hồi Hướng; 6. Tùy Thuận Bình Đẳng Thiện Căn Hồi Hướng; 7. Tùy Thuận Đẳng Quán Nhất Thiết Chúng Sinh Hồi Hướng; 8. Như Tướng Hồi Hướng; 9. Vô Phược Trước Giải Thoát Hồi Hướng và 10. Pháp Giới Vô Lượng Hồi Hướng.

[4] Thập địa: mười địa vị trong quá trình tu hành của đệ tử Phật. Địa, Phạn: Bhumi, nghĩa là trụ xứ, trụ trì, sinh thành. Tức trụ ở giai vị ấy và lấy đó làm nhà, đồng thời giữ gìn pháp, trưởng dưỡng pháp, khiến cho sinh quả. Danh từ Thập địa mà các kinh luận nêu.

Hoa Nghiêm 23 (bản Cựu dịch), 34 (bản Tân dịch). Đó là: 1. Hoan Hỷ địa; 2. Ly Cấu địa; 3. Minh địa; 4. Diệm địa; 5. Nan Thắng địa; 6. Hiện Tiền địa; 7. Viễn Hành địa; 8. Bất Động địa; 9. Thiện Huệ địa; 10. Pháp Vân địa.

[5] Bảy phương tiện: gồm Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ-tát thừa của Tạng giáo, Thông giáo, Biệt giáo.

Dạy cư sĩ Đinh Canh Dã

Thuở xưa, Hòa thượng Tịch Thất nói: “Người đời muốn tu Tịnh nghiệp không nên nói tôi bận rộn hãy đợi khi rảnh rang, hôm nay tôi nghèo thiếu hãy đợi lúc giàu có, hôm nay tôi còn trẻ hãy đợi đến khi già. Nếu số phận thường bận rộn, nghèo thiếu, mất sớm thì đối với Tịnh nghiệp không có duyên tu tập. Bất chợt qua đời, dù hối hận nhưng đâu còn kịp nữa! Chi bằng, lúc thân thể khỏe mạnh nỗ lực tu hành”.
Lời nói ấy thật là chí lý!

Song, hiện nay người tin tưởng ưa thích Tịnh độ thì ít, dù có thể tin sâu nhưng cứ lần lữa, dần dà trôi qua một đời, phần nhiều đều như thế.

Cư sĩ tư chất thuần hậu cẩn trọng, gặp tôi chưa bao lâu mà liền có thể tỏ ngộ vô thường, trường trai thờ Phật. Như thế, vốn đã có duyên từ đời trước rồi.

Nhà cư sĩ không có bất động sản, sinh kế gia đình mỗi năm đều dựa vào việc gặt hái. Nhà không có bất động sản thì biết rằng chẳng đầy đủ. Thân có chức vụ thì chẳng rảnh rang, tuổi năm mươi thì biết rằng chưa đến nỗi già suy.

Cư sĩ một lúc từ biệt nhà cửa, khước từ các đệ tử, giữ trọn giới Ưu-bà-tắc, đóng cửa trọn năm chuyên tu Tịnh nghiệp, đến như vật dụng củi, nước v.v… ban đầu cũng không quan tâm. Nếu chẳng phải bậc trượng phu mạnh mẽ thì làm sao được như thế?

Hơn nữa, thất nhỏ hẹp an trí tượng Phật
và kinh điển đã chiếm một nửa. Ở trong ấy, ẩn lánh huyên náo, tinh chuyên tu hành thì khác gì ở trong căn nhà rộng rãi vào mùa hạ, tự cảm thấy đầy đủ thơ thới. Song chỉ e cư sĩ không thể được vậy lâu dài.

Than ôi! Nói về con người ở thế gian cũng đâu từng cố định. Tôi thiết nghĩ: “Sự rảnh rang thì không gì rảnh rang bằng không bỏ mất thời gian; sự giàu có thì không gì giàu có bằng thường biết đủ; sự mạnh mẽ thì không gì mạnh mẽ bằng siêng năng tinh tấn”.

Nay, cư sĩ gồm đủ cả ba, thì tuy sự rảnh rang giàu có, mạnh mẽ của người khắp thiên hạ đem so với cư sĩ thì tôi biết họ chỉ có danh suông mà không có thật. Người đối với việc nguyện sinh về Tịnh độ được như thế, đâu thấy có ai!

Còn có một lời, tôi mong được khuyên bảo với nhau:

Ví như chiếc thuyền to lớn, muốn khởi hành tuy có cột buồm cao, bánh lái ngay thẳng, tư cụ hoàn bị, chí nguyện ra đi đã quyết định, có thể thuận buồm xuôi gió, khoảnh khắc vượt xa ngàn dặm. Nhưng nếu chưa chịu nhổ cọc ở trước thuyền, hay bị một sợi dây buộc lại thì dù có dùng mọi cách đẩy thuyền ra cũng không sao thực hiện được.

Thời nay, người tu Tịnh nghiệp trọn ngày niệm Phật, sám hối phát nguyện mà Tây Phương còn xa vời, không bảo đảm vãng sinh. Điều đó chẳng có lý do gì khác, bởi cọc ái chưa nhổ, sợi dây tình còn buộc chặt.

Nếu có thể xem sự ân ái nơi Ta-bà giống như nhai sáp, chẳng quan tâm đến bận rảnh, động tĩnh, khổ vui, mừng lo, chỉ dựa vào một câu Phật hiệu vững chắc như núi Tu-di, tất cả cảnh duyên không dao động. Hoặc có khi tự cảm thấy lười mỏi, tập khí mê lầm hiện ra, liền phấn khởi một niệm như Ỷ Thiên trường kiếm[1], khiến cho phiền não ma quân không nơi trốn tránh, cũng như lò lửa hừng hực, khiến cho tình thức từ vô thỉ tan chảy hoàn toàn. Người này tuy đang ở cõi đời ngũ trược mà toàn thân đã ngồi trong thế giới Hoa Sen, đâu phải đợi Phật Di-đà nắm tay, Quan Âm nghinh đón thì mới tin mình vãng sinh!

Có người nói:

– Cư sĩ kia tinh tấn mạnh mẽ như thế, lẽ nào lại bị tình ái dẫn dắt, cũng như không bệnh mà nhận thuốc.

Tôi nói:

– Không phải vậy!

Người xưa nói: “Ái không nặng thì chẳng sinh vào Ta-bà”. Còn nói: “Đạo niệm nếu đồng tình niệm, thì thành Phật đã lâu rồi”.

Tiên nhân được ngũ thông[2] do tinh tấn siêng năng nhiều kiếp, nhưng vì dục lậu chưa trừ, còn bị tan hủy công hạnh. Nên biết, chưa chứng Thánh quả, hiếm có người không bị ái dục buộc ràng, khổ lụy.

Cư sĩ nếu tâm niệm thế gian nhẹ nhàng, tâm đạo mạnh mẽ, thấy dục như tránh hầm lửa, nhớ Phật như nhớ mẹ hiền, ăn chay tu trì theo thời khóa, thề mãi không đổi thay. Nếu được vậy thì ngại gì người khỏe không bệnh lại thường hay uống thuốc bổ, há chẳng phải đi đứng nhẹ nhàng càng thêm khỏe mạnh hay sao?

Tóm lại, phiền não vô tận mà cội gốc sinh tử chỉ là tham ái. Tham ái này hay nhận chìm người tu hành, làm chướng ngại sự vãng sinh. Thế nên, trong kinh Phật chỗ nào cũng quở trách. Nếu tình ái nhợt nhạt một phần thì tịnh nghiệp thành thục một phần. Thế mới mong được giải thoát bến bờ sinh tử.

Cư sĩ nên cố gắng lên!

[1] Ỷ thiên trường kiếm: thanh gươm rất bén nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.

[2] Ngũ thông: còn gọi Ngũ thần thông, năm năng lực siêu việt tự nhiên đạt được do tu bốn tĩnh lự căn bản.

Thần nghĩa là không thể nghĩ bàn, thông nghĩa là tự do tự tại. Năm thần thông là:

1. Thần cảnh trí chứng thông (Rddhi Visaya jnansaksatkriyabhijna): còn gọi Thần cảnh thông, Thần túc thông, có thể tự tại đi đến bất cứ nơi nào.

2. Thiên nhãn trí chứng thông (Divyacaksur jnansaksatkriyabhijna): còn gọi Thiên nhãn trí thông, Thiên nhãn thông, có thể thấy những cái mà mắt người thường không thể thấy được.

3. Thiên nhĩ trí chứng thông (Divya srotra jnansaksatkriyabhijna): còn gọi Thiên nhĩ trí thông, Thiên nhĩ thông, có thể nghe được những âm thanh mà người thường không thể nghe được.

4. Tha tâm trí chứng thông (Cetah paryaya jnansaksatkriyabhijna): còn gọi Tha tâm trí thông, Tri tha tâm thông, Tha tâm thông, có thể thấu rõ ý nghĩ trong tâm người khác.

5. Túc trụ tùy niệm trí chứng thông (Purve nivasanusmrti jnansaksatkriyabhijna): còn gọi Túc trụ trí thông, Thức túc mạng thông, Túc mạng thông, có thể biết rõ việc quá khứ.

Gởi cư sĩ Cố Trệu Trinh

Đời mạt pháp bạc bẽo, con người có xu hướng giả dối. Tìm lấy một người chăm chú nơi đạo, giữ lòng thành, tuân thủ lối xưa, chất phác như lão cư sĩ thì rất khó được, giống như vẹt sao chọn lấy mặt trăng. Trong số tịnh hữu có được vị công thần như ông, lại thêm ông Đinh Canh Dã, ông Thuấn Nghi đều là thân thuộc của cư sĩ, thật giống như lân phụng cùng nhau tụ hội.

Trong số ấy, ông Thuấn Nghi hiếu thảo tột bậc, quên cả thân mình, những hạnh khổ, hạnh khó của ông ta tôi chưa hề làm mà cũng chẳng thể làm được. Trong lòng khâm phục, lại chẳng thể dùng ngòi bút và lời nói khen thuật nổi.

Đọc bài trường ca của cư sĩ, tôi thấy xứng hợp với ông ấy, xem di xem lại đôi ba lượt, càng thấy tinh vi xảo tuyệt. Xưa, ông Tri Chương tám mươi tuổi vẫn ham ngâm vịnh, ông Khâu Vi chín mươi tuổi vẫn giỏi làm phú.

Nay, cư sĩ tuổi xấp xỉ hai ông ấy mà trước tác gồm thâu tài khéo của họ, mong cư sĩ hãy tiếc nuối từng phân tấc thời gian, giảm bớt nỗi ham thích bút mực, dồn tinh thần sức lực chuyên tâm vào Tịnh nghiệp khiến mầm tuệ tăng trưởng, hạt giống đạo thành thục, ngày sau được hóa sinh trong hoa sen trước Phật thì đâu thể nói là chỉ giống như ông Khâu, ông Hạ vậy thôi!

Đáp cư sĩ Cố Trệu Trinh

Nhận được mấy lời của ông nói rằng: “Trần nghiệp tình duyên rất khó dẹp trừ, bao giờ mới được thành diệu quán?”.
Như thế, đủ biết lòng tha thiết cầu đạo của ông. Nhưng theo cái nhìn nhỏ hẹp của tôi thì ngay nơi tâm chán nản tình trần, ưa thích diệu quán này chính là sự chướng ngại bên trong của người học đạo. Vả lại, tránh huyên náo tìm yên tĩnh, ở đời chưa có phương pháp ấy.

Tình trần quả thật có thể dứt tuyệt chăng? Cần phải biết: “Muôn pháp vốn nhàn, chỉ người tự náo”. Lời nói này rất hay!

Đại sư Ngẫu Ích nói: “Tuy bảo sáu căn dong ruỗi, sáu tình dao động, chín chắn suy tìm. Trần đã không lầm lỗi, căn há lại lỗi lầm! Căn đã không lầm lỗi, tình lẽ nào riêng mình gánh tội!”.

Ba khoa phân tích trên đã không có chủ tể thật sự, dù khiến cho hợp chung lại, cũng đâu có pháp thật.

Thế mà, chúng ta ở trong pháp giả dối ấy chấp chặt nhân ngã, bỏ này lấy kia, cũng như nhặm mắt thấy hoa đốm lăng xăng, còn muốn phân biệt hoa đốm cái nào đẹp cái nào xấu. Như thế, không phải là sai lầm lắm sao? Chỉ đem toàn thể thân tâm thế giới buông bỏ thì mắt trí tuệ sáng ngời, chỗ nào có tình trần để chán.

Song, muốn niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ thật ra chẳng ngại phát khởi tâm ưa chán mạnh mẽ. Nếu chấp vào tâm ưa chán này, lại trở thành bệnh sai lầm; hiểu rõ nó thì chỉ là phương tiện. Điều đó cũng ở nơi người thôi.

Nói về diệu quán, kinh Vô Lượng Thọ có nói: “Biển Chánh biến tri của chư Phật, từ nơi tâm tưởng mà sinh. Khi tâm chúng sinh tưởng Phật, tâm này tức là ba mươi hai tướng tốt[1], tám mươi vẻ đẹp[2]. Tâm này làm Phật. Tâm này là Phật”.

Chỉ mấy lời nói này tức là chỗ cốt yếu của Niệm Phật Tam-muội. Tất cả môn quán đều từ đây mà có. Bởi vì biết tâm này làm Phật, mà chẳng biết tâm này là Phật thì rơi vào Quyền thừa Tiểu quả.

Chỉ biết tâm này là Phật mà chẳng biết tâm này làm Phật, ắt rơi vào tà ma ngoại đạo.

Tâm này làm Phật là pháp quán Không và Giả.

Tâm này là Phật tức pháp quán Trung đạo.

Tâm này hoàn toàn là Phật mà làm Phật, hoàn toàn làm Phật mà là Phật.

Một niệm viên dung ba pháp quán. Nên bài kệ trong kinh Đại Tập nói:

Nếu vào định chỉ niệm Di-đà,

Gọi là Thiền sâu mầu vô thượng,

Khi chí tâm tưởng hình tướng Phật

Tức là pháp không sinh không diệt.

Thiền Sư Vĩnh Minh nói:

Một niệm tương ưng một niệm là Phật.

Mỗi niệm tương ưng, mỗi niệm là Phật.

Phật là niệm lý bản giác, niệm là trí thỉ giác. Nên biết ngay khi niệm Phật thỉ giác và bản giác hợp nhau, lý và trí thầm hợp, năng sở đều quên, mình người không hai. Không có Phật ở ngoài niệm, làm niệm và đối tượng để niệm, không có niệm ở ngoài Phật, để mà niệm Phật. Vượt qua tình chấp, rời hẳn bốn câu và một trăm phủ định[3], trực tiếp viên đốn. Không có gì hơn chỗ nầy nữa!

Ngoài sự niệm Phật ra lẽ nào lại có môn diệu quán gì khác để thành tựu?

Thiết nghĩ, thuốc không luận mắc rẻ, lành bệnh là thuốc hay, trị gốc ngọn nên tùy huỡn gấp. Cư sĩ tuổi đời đã cao, biết hồi tâm hướng đạo, dù sống được trăm năm nhưng thời gian còn lại có bao lâu! Nên gắng công trên con đường rất dễ dàng ổn thỏa này, chớ cư sĩ còn tìm hiểu diệu huyền, bồi hồi trông đợi nơi lối tẻ nào khác nữa?

Lúc trước, khi tôi gặp cư sĩ chẳng những không bàn về pháp quán tưởng nhiệm mầu (môn diệu quán), chỉ nói sơ lược thôi mà bàn nhiều về thời khóa hàng ngày, chỉ lấy sáu chữ Di-đà khuyên bảo với nhau. Đây chính là phương thuốc tiên hay chữa lành bệnh nguy cấp. Lại còn trị cả gốc lẫn ngọn, huỡn gấp đều hợp nghi, chỉ quý ở chỗ tin sâu, gắng sức thực hành. Người xưa nói: “Chỉ cần thấy Phật Di-đà, lo gì chẳng được khai ngộ”. Thế thì, tình trần nào mà chẳng tiêu tan, Tam-muội nào mà chẳng hiện tiền!

Song hôm nay, dù có trăm ngàn pháp môn, vô lượng nghĩa lý vi diệu đều đặt sang một bên không dùng, chỉ tặng nhau một vị, một đơn thuốc này. Nếu chẳng quả quyết mạnh mẽ đồng thời gắng sức chuyên tâm trì niệm, thì lấy gì để phấn chấn tự lập?

Nếu nhất định bảo rằng: công hiệu của trì danh không bằng quán tưởng thì đối với thân tướng vi diệu trang nghiêm của Phật Di-đà cùng pháp quán sâu sắc, vi tế trong kinh luận mở ra, e kẻ phàm phu mới tu không dễ gì thành tựu. Rốt cuộc chẳng bằng y theo kinh Di-đà chuyên nhất trì danh là ổn thỏa. Chỉ cần khi trì danh thấu rõ Sự Lý, nhất tâm không loạn thì đó tức là cảnh quán, không cần mong cầu huyền diệu gì khác.

Cảm thấy lão cư sĩ vô cùng chân thành, quên cả tuổi cao, ân cần thưa hỏi kẻ dưới, nên mới dám đem cái thấy nhỏ hẹp của mình nói thẳng hết ra mà không kiêng kỵ gì cả. Xin ông xét nét chọn lựa xem thế nào?

[1] Ba mươi hai tướng tốt: 32 tướng tốt, gồm: 1. Bàn chân bằng thẳng; 2. Chỉ dưới bàn chân có tướng bánh xe ngàn căm; 3. Ngón tay dài, trước đầu ngón tay nhỏ và nhọn; 4. Tay, chân đều mềm dịu; 5. Trong kẻ tay, kẻ chân có da mỏng như giăng lưới; 6. Gót chân đầy đặn; 7. Trên bàn chân nổi cao đầy đặn; 8. Bắp vế tròn như bắp chuối; 9. Khi đứng hai tay dài quá đầu gối; 10. Nam căn ẩn kín; 11. Thân hình cao lớn và cân phân; 12. Những lỗ chân lông thường ánh ra sắc xanh; 13. Những lông trên mình uốn về bên phải; 14. Thân thể sáng chói như vàng thắm; 15. Quanh mình thường có hào quang chiếu ra; 16. Da mỏng và mịn; 17. Lòng bàn chân, bàn tay, hai vai và trên đảnh, bảy chỗ ấy đầy đặn; 18. Hai nách đầy đặn; 19. Thân thể oai nghiêm như sư tử; 20. Thân thể vuông vắn ngay thẳng; 21. Hai vai tròn trịa cân phân; 22. Bốn mươi cái răng; 23. Răng trắng, trong, đều nhau và khít; 24. Bốn cái răng nanh lớn hơn; 25. Gò má nổi cao như hai mép của sư tử; 26. Nước miếng đủ chất thơm ngon; 27. Cái lưỡi rộng, dài, mềm mỏng, khi le ra đến chân tóc; 28. Giọng nói thanh nhã nghe xa, như giọng nói của đức Phạm thiên; 29. Con mắt xanh biếc; 30. Lông mi dài đẹp; 31. Có chòm lông trắng thường chiếu sáng, mọc giữa hai chặng mày; 32. Trên đỉnh đầu thịt nổi cao lên như một búi tóc.

[2] Tám mươi vẻ đẹp: 80 vẻ đẹp. Có nhiều thuyết mô tả khác nhau. Theo kinh Đại Bát-nhã 381 thì 80 vẻ đẹp là: 1. Móng tay thon dài, mỏng bóng; 2. Ngón tay, chân tròn và thon dài, mềm dịu; 3. Tay chân cân xứng, giữa các ngón khi khép lại thì đầy kín; 4. Tay chân sáng bóng, tươi dài; 5. Gân cốt ẩn, không hiện; 6. Hai mắt cá chân đều ẩn; 7. Bước đi thẳng tới trước, oai nghi khoan thai như Long tượng vương; 8. Bước đi oai nghi tề chỉnh như Sư tử chúa; 9. Bước đi vững vàng như ngưu vương; 10. Cách tiến dừng uyển chuyển thanh nhã như nga vương; 11. Quay nhìn đều quay bên phải như Tượng vương nhấc mình di chuyển; 12. Các khớp tay và chân đều đặn tròn đẹp; 13. Đốt xương liền lạc như rồng cuộn; 14. Đầu gối tròn đầy; 15. Chỗ kín có vân xinh đẹp thanh lịch; 16. Tay chân trơn mềm sạch sẽ; 17. Dung mạo đôn hậu, nghiêm túc và hiện tướng Vô úy; 18. Tay chân tráng kiện; 19. Thân thể an khang viên mãn; 20. Thân tướng giống như Vua tiên, toàn thân đoan nghiêm sáng sạch; 21. Có hào quang tròn bao quanh thân, thường tự chiếu sáng; 22. Bụng vuông vắn, trang nghiêm; 23. Rốn sâu xoay bên phải; 24. Cuống rốn đầy, không lõm không lồi; 25. Da dẻ không ghẻ lác; 26. Bàn tay mềm mại, dưới bàn chân bằng phẳng; 27. Chỉ tay sâu dài rõ ràng; 28. Môi đỏ thắm bóng mềm; 29. Mặt không dài không ngắn, không lớn, không nhỏ, đoan nghiêm vừa vặn; 30. Tướng lưỡi mỏng mềm rộng dài; 31. Âm thanh oai hùng, vang xa, trong suốt; 32. Âm vận hay đẹp như tiếng vang từ hang sâu; 33. Sống mũi cao và thẳng, lỗ mũi kín; 34. Răng đều đặn trắng bóng; 35. Răng tròn, trắng bóng, bén; 36. Mắt tròng đen trắng phân minh; 37. Tướng mắt dài rộng; 38. Lông mi đều đặn, dày, dài; 39. Đôi mày dài nhuyễn mịn; 40. Hai mi xanh biếc như màu lưu ly; 41. Lông mày cách xa mắt và cong như trăng lưỡi liềm; 42. Vành tai rộng lớn, trái tai đầy thòng xuống; 43. Hai vành tai bằng nhau, không có khuyết tật; 44. Vóc dáng khiến người thấy sinh lòng ái kính; 45. Trán rộng bằng phẳng; 46. Thân oai nghiêm đầy đủ; 47. Tóc dài xanh biếc, dày mà không bạc; 48. Tóc mịn màng tỏa mùi hương thanh khiết; 49. Tóc suông không rối; 50. Tóc không đứt rụng; 51. Tóc trơn bóng, bụi bặm không dính; 52. Thân thể vững chắc đầy đặn; 53. Thân thể cao lớn đoan chánh; 54. Các khiếu trong sạch tròn đẹp; 55. Sức mạnh hơn người; 56. Thân tướng được mọi người thích nhìn; 57. Mặt như trăng tròn mùa thu; 58. Vẻ mặt thư thái; 59. Da mặt trơn bóng không có vết nhăn; 60. Làn da sạch sẽ không có cáu ghét, không mùi hôi; 61. Các lỗ chân lông luôn toát hương thơm; 62. Miệng luôn tỏa hương thơm thanh khiết; 63. Thân tướng đầy đặn xinh đẹp; 64. Lông trên mình xanh biếc sạch sẽ; 65. Pháp âm tùy chúng ứng hiện không sai; 66. Tướng đỉnh đầu không ai thấy được; 67. Ngón tay, ngón chân đường khu ốc phân minh; 68. Lúc đi chân cách mặt đất; 69. Tự giữ gìn không nhờ người khác hộ vệ; 70. Oai đức bao trùm tất cả; 71. Âm thanh Phật nói vừa với sự tiếp nhận của mỗi chúng sinh; 72. Tùy theo sự yêu thích của chúng hữu tình mà thuyết pháp; 73. Chỉ một âm diễn thuyết chánh pháp, mà hữu tình tùy mỗi loại đều nhận biết được; 74. Thuyết pháp theo thứ lớp, tùy nhân duyên; 75. Lời của Phật thường khen thiện chê ác mà tâm không yêu ghét; 76. Bất cứ việc gì trước quan sát sau mới làm; 77. Tướng tốt loài hữu tình không thể thấy hết; 78. Xương đảnh cứng chắc tròn đầy; 79. Dung nhan trẻ hoài không già; 80. Chân tay và trước lồng ngực đều có đức tướng cát tường.

[3] Bốn câu và một trăm phủ định: là lời nói thường dùng để dẹp sự mê chấp sai lầm, đối đãi về có không của chúng sinh nhằm nói rõ lẽ thật chân không, không có tướng để nắm bắt, giúp người tu đạt đến cảnh giới vắng lặng không còn suy nghĩ phân biệt. Bốn câu là: có, không, cũng có cũng không, chẳng phải có chẳng phải không. Một trăm phủ định là: chẳng phải có chẳng phải không, chẳng phải hữu vi chẳng phải vô vi, chẳng phải hữu lậu chẳng phải vô lậu, chẳng phải quá khứ, chẳng phải vị lai, chẳng phải hiện tại.

Danh tự thuyết gởi cư sĩ Kim Thủy Nhược

Đại sư Trí Giả dùng “lục tức Phật” phân biệt rõ ràng nhằm tránh sự lạm dụng. Đầu tiên là Lý tánh tức Phật, kế đến là Danh tự tức Phật. Ban đầu được nghe Thánh giáo, cho đến người thấy rõ tâm tánh đều chưa ra khỏi địa vị Danh tự tức Phật. Nên biết thời gian ở trong Danh tự này rất dài mà nghĩa lý cũng rất sâu vô lượng.
Cư sĩ tên Thiện, tự là Thủy Nhược, nếu hiểu rõ tên này, nhận biết tự này thì đối với đạo lý thấy tánh thành Phật đã nhận rõ hơn phân nửa.

Cáo Tử nói: “Tánh giống như nước chảy, nếu khơi dòng về phương Đông thì chảy về Đông; khơi dòng về phương Tây thì chảy về Tây. Tánh người không phân biệt thiện và bất thiện, cũng như nước không phân ra Đông và Tây”.

Kỳ lạ thay! Lời của Cáo Tử nói về tánh, tuy chẳng phải nghĩa lý cùng tột trong nhà Nho mà lại giống với Khế kinh của đức Phật. Rất tiếc là Cáo Tử bị đuối lý bởi biện luận của Mạnh Tử nên cuối cùng không thể giải bày được học thuyết của mình. Điều ấy cũng như mọt ăn gỗ ngẫu nhiên thành chữ.

Mười pháp giới vốn từ một tâm thuần nhất thì pháp thiện và bất thiện đều đầy đủ nơi tâm tánh. Điều đó đã rõ ràng rồi! Bảo rằng: trong Tánh có chủng tử nhiễm và tịnh nên không có một pháp thế gian và xuất thế gian nào có thể vượt ngoài Tánh. Noi theo chủng tử tịnh trong Tánh mà phát khởi hiện hành, đó là đạo của người quân tử, như thế gọi là tu thiện, noi theo chủng tử nhiễm trong Tánh mà phát khởi hiện hành, đó là đạo của kẻ tiểu nhân, như thế gọi là làm ác. Sách Trung Dung nói: “Thuận theo Tánh là Đạo”. Khổng Tử nói: “Đạo có hai: nhân và bất nhân mà thôi”. Đạo không phân chia nhân và bất nhân, thì tánh không phân biệt thiện hay bất thiện. Nếu Tánh chỉ là thiện thì tất cả đều là thiện. Vậy thì nẻo ác ba đường chẳng phải do tâm tạo ra, đâu thể gọi là pháp giới? Thế nên, hàng Nhất Xiển-đề tuy đoạn dứt việc Tu thiện nhưng không đoạn dứt Tánh thiện. Nếu đoạn dứt Tánh thiện thì rốt cuộc không thể thành Phật. Chư Phật, Thánh nhân chỉ đoạn dứt việc làm ác nhưng không đoạn trừ Tánh ác. Nếu đoạn trừ Tánh ác thì không thể thị hiện nơi thế giới xấu ác để điều phục chúng sinh.

Sự quan hệ của việc Tu và Tánh là
điều nên thấu suốt. Đã không thể lìa Tánh để khởi Tu, cũng không thể bỏ việc Tu mà nói về Tánh.

Xin lấy nước để nói về điều này:

Nói về Tánh thì nước vốn là ướt nên chảy xuống, chảy về Đông, về Tây.

Nói về Tu là khơi dòng về phương Đông hoặc khơi dòng về phương Tây.

Cư sĩ muốn tu Tịnh nghiệp, có thể không quan tâm danh nghĩa mà phải xét kỹ lý do tu hành pháp ấy.

Nếu như trong lòng niệm niệm hướng về chạy theo tham sân si, ngày dài tháng rộng kéo không trở lại, dẫn chẳng chịu ra. Những hành động phát ra từ thân, miệng, phần nhiều hợp với điều ác thì gọi là khơi dòng về phương Đông, rốt cuộc sẽ làm người và vật trong mảnh đất Ta-bà.

Nếu trong lòng niệm niệm rời bỏ chán nản ngũ dục, tưởng nhớ Phật A-di-đà, mong muốn thân cận như con nhớ mẹ, chẳng bị cảnh nghiệp kéo lôi, chẳng bị lối rẽ khác làm mê lầm thì gọi là khơi dòng về phương Tây, nhất định hóa sinh trong hoa sen ở thế giới Cực Lạc thấy Phật được thọ ký.

Do đó mà xét, thấy tánh thành Phật, cũng ở nơi sự “khơi dòng” mà thôi. Nếu có thể khơi dòng về phương Tây, thì nước chảy về phương Tây, không vào trong vạc nước sôi nơi ba đường ác, không xen tạp nước khát ái của người và trời, không lẫn lộn nước vẫn đục của phàm phu, không thấm nước ác của tà ma ngoại đạo, không rơi vào nước chết của Nhị thừa[1], không đồng với nước dâng lên thình lình của Quyền thừa, thường được nước Lý thấm nhuần ruộng tâm, nước Trí để viên dung vạn hạnh.

Ngay trong địa vị “Danh tự” mà hòa hợp trọn vẹn với nước Tánh của Như Lai. Đã được hòa hợp với nước Tánh thì dung hội về trong ao thất bảo là tinh khiết, là trong mát, là ngọt ngào, là mềm mại, là thấm nhuần, là an hòa, là trừ bệnh, là tăng ích, rốt ráo trở thành nước Thánh có đủ tám công đức. Nước chảy về Tây, đến đây là cùng tột, thật có thể thấu suốt đến chỗ tận cùng Tánh của nước.

Song, tôi xét Danh và Tự của cư sĩ là theo ý của Mạnh Tử, chẳng phải theo nghĩa của Cáo Tử.

Nếu như quyết chọn pháp thiện mà tu tập được tròn đầy, quyết phá trừ pháp bất thiện, tu tập để trừ bỏ cho hết thì Đạo của quân tử tăng trưởng, Đạo của tiểu nhân tiêu tan, cuối cùng dừng lại ở chỗ thiện cùng tột. Thế thì đâu không hợp với Cáo Tử, đâu không hợp với Tuyên Thánh, đâu không hợp với Đại Thánh nhân ở phương Tây.

Cư sĩ có dốc sức “khơi dòng” ấy chăng?

Chương Thế Chí Viên Thông trong kinh Thủ lăng-nghiêm

Kinh Thủ Lăng-nghiêm được nói sau kinh Pháp Hoa, là một bộ kinh rộng lớn sâu thẳm trong Phật pháp. Xưa kia, lúc ngài Trí Giả phân định về giáo pháp, kinh này chưa truyền đến Trung Hoa; vì thế, Ngài chỉ lấy Pháp Hoa và Niết-bàn làm pháp vị cuối cùng. Nếu một phen Ngài được thấy kinh này, chắc chắn sẽ viết chú sớ giải thích rộng rãi, và phân định kinh này là vị đề hồ vô thượng.

Biết làm thế nào khi bốn bậc Thánh có thể làm chỗ nương tựa cho chúng sinh (Tứ y Đại sĩ)[1] đã diệt độ rồi, các vị sớ chủ xưa nay ai nấy hưng khởi những cái thấy khác nhau, lâu ngày có nhiều sự tranh luận khiến cho hàng hậu học không có con mắt chọn lựa pháp, chẳng biết nên theo ai, đến nỗi toan bỏ sạch các sớ giải, chỉ xem kinh văn. Đây cũng là ý kiến nghiêng lệch. Bởi lẽ, dùng trí mình để tìm đọc kinh văn, đa phần chẳng thể lãnh hội được chỉ thú, nên rốt cuộc cứ mờ mờ mịt mịt mà thôi!

Thử bình tâm mà xét, chẳng lẽ các sớ giải không có chỗ hay của nó? Tuy nhiên, không sơ thất ở chỗ sai lầm và trái ngược thì lại sơ thất ở chỗ thô vụng giản lược. Nhưng vẫn có những vị trí thức cao siêu hơn người, dựa vào kinh này để phát huy những lý luận mới mẻ nơi tâm mình. Trong những bản chú giải thật sự bỏ đi ý riêng, thuận theo kinh, phù hợp ý Phật thì ngoài bản sớ giải của ngài Tây Hồ Giám ra, tôi chưa thấy bản nào hay bằng được; ai bảo người thời nay quyết chẳng thể vượt hơn thời xưa?

Rất có thể có người trách Ngài chủ ý thái quá, hoặc chê rằng không có chỗ y cứ; cho dù bản sớ giải của Ngài chưa thể hoàn toàn không có điểm nào đáng chê trách, đó là bản sớ giải có công rất lớn đối với kinh này. Còn như thuyết “bỏ thức dùng căn, chú trọng viên thông” chính là lời chân thành của chư Phật, ai dám chẳng tin? Thể thức giáo hóa ở phương này ai dám chẳng tuân theo? Lại luận bàn điều ấy chính là trái kinh chống Phật vậy.

Hiện tại, các thiện hữu đã chú tâm vào Tịnh độ, lại muốn nghiên cứu kinh này thật là đáng quý. Chẳng luận đến phần trước hay phần sau, chỉ ngay nơi chương Viên Thông này đã có những điểm dễ gây lầm lẫn lớn. Nếu chẳng khéo đọc, khéo hiểu thì gọi là đề hồ biến thành độc dược cũng chẳng xa chi lắm. Chẳng lẽ các vị chưa từng nghe nói “trong trường tuyển Phật trên hội Lăng-nghiêm, ngài Quán Thế Âm đăng khoa, ngài Thế Chí thi trượt” đó ư? Đối với thuyết ấy, nếu người tu Tịnh độ chẳng khéo phân biệt nhận định, sao có thể phát huy được ý sâu kín của kinh này? Sao có thể giữ cho hạnh nguyện của người học sau này được vững chắc?

Chỉ vì pháp môn của ngài Thế Chí chẳng phải là nghĩa lý chính yếu của kinh này, nên trong bản sớ giải của ngài Tây Hồ Giám cũng có nêu nhưng không phát huy. Nay tôi sẽ nói rõ về pháp môn trước, sau đó tỏ bày nghĩa lý sâu kín.

a. Nói rõ về pháp môn:

Nên biết pháp Viên Thông của Bồ-tát Đại Thế Chí thuộc về Căn đại trong Thất đại, vì nhiếp trọn sáu căn. Nương vào sáu căn để tu Niệm Phật Tam-muội, có ba thứ khác nhau: một là niệm Phật chính mình, hai là niệm Phật khác, ba là niệm Phật chính mình và Phật khác.

* Nếu niệm Phật chính mình thì đồng

với môn Viên Thông của các bậc Thánh khác: lấy căn tánh làm pháp môn được niệm, lấy sự quay trở về tánh lặng trong làm phương tiện hay niệm, như kinh Ương Quật dạy: “Nhãn căn của người kia thường đầy đủ chẳng giảm tu, thấy rõ ràng rành rẽ ở nơi các đức Như Lai… Ý căn của người kia thường đầy đủ chẳng giảm tu, biết rõ ràng rành rẽ ở nơi các đức Như Lai”. Cũng giống như trong kinh này, mười phương chư Phật cùng bảo A-nan: “Ông muốn mau chứng an lạc giải thoát tịch tĩnh diệu thường thì chỉ do nơi sáu căn của ông, chớ chẳng phải cái gì khác nữa”.

Lại như Tổ sư nói: “Ở trong thai gọi là thân, ở đời gọi là người, ở mắt gọi là thấy, ở tai gọi là nghe, nơi mũi phân biệt hương, nơi miệng thì đàm luận, nơi tay thì cầm nắm, nơi chân thì đi chạy. Người biết bảo đó là tánh Phật, kẻ chẳng hiểu gọi đó là linh hồn”. Từ trước, chư Tổ đã chỉ dạy những điều như trên rất nhiều. Môn Tam-muội Niệm Phật chính mình này bao gồm hết thảy giáo nghĩa, hết thảy pháp môn trực chỉ của Thiền tông, hoàn toàn không thiếu sót.

* Nếu niệm Phật khác thì chẳng đồng với môn Viên Thông của các bậc Thánh: dùng sáu căn làm chỗ hay niệm, lấy quả vị Phật làm nơi được niệm. Tuy Pháp thân được niệm ấy vốn cùng một thể với ta, nhưng ta không có hai thứ trang nghiêm. Chư Phật phước trí tròn đầy, thành Lưỡng Túc Tôn. Niệm quả đức của Phật chẳng sinh mỏi chán, mắt thường chiêm ngưỡng tướng tốt của Phật, tai thường nghe lời dạy của Phật, mũi thường ngửi hương Phật, lưỡi thường xưng danh hiệu Phật, thân thường lễ tượng Phật, ý thường nghĩ nhớ pháp Phật. Sáu căn hoàn toàn chuyên chú vào cảnh Phật, như thế liên tục không gián đoạn, không xen tạp. Môn Tam-muội Niệm Phật khác này bao gồm hết thảy các kinh Di-đà, Dược Sư, Di-lặc Thượng sinh… và tất cả nghiệp hạnh, pháp môn quán tưởng (về sự tướng) trong Liên Xã hoàn toàn không thiếu sót.

* Nếu niệm Phật chính mình và Phật khác thì vừa giống như các môn Viên Thông lại vừa khác biệt. Trước hết phải khai mở sự hiểu biết trọn vẹn nhanh chóng, biết rõ chúng sinh và Phật như nhau, tâm và cõi nước chẳng hai, nương nhờ y báo, chánh báo của đức Phật A-di-đà để hiển lộ tâm tánh mình. Đã chẳng mê lầm ngoài tánh có Phật, cũng chẳng chấp cõi kia chẳng phải là tâm. Đó là chỗ “khai mở sự hiểu biết trọn vẹn nhanh chóng” giống với các môn Viên Thông khác. Còn điểm khác biệt là phải nương nhờ vào hoàn cảnh nơi cõi nước Cực Lạc, kinh Quán Vô Lượng Thọ gọi là phương tiện thù thắng lạ kỳ. Ở đây, kinh Lăng-nghiêm nói: “Chẳng nhờ phương tiện, tự được tâm khai ngộ”, do phương tiện tối thắng lạ kỳ này nên chẳng nhờ phương tiện nào khác nữa.

Nay, đem ba thứ Niệm Phật Tam-muội trong giáo lý Viên đốn so với bốn loại Tịnh độ để nói sơ lược về công dụng rộng lớn của sự nhiếp thọ chúng sinh:

Chỉ niệm Phật chính mình thì nhiếp về hai cõi Tịnh độ Thật Báo và Tịch Quang, nhưng chỉ có thể chứng nhập theo chiều dọc, chẳng thể vượt thoát ba cõi theo chiều ngang. Môn này chỉ có thể độ hàng căn cơ lanh lợi, chẳng thể tiếp độ cùng khắp. Hơn nữa, môn này đồng với môn Viên Thông của các bậc Thánh nên chẳng thể tỏ rõ tánh cách lạ lùng độc đáo, dường như chẳng phải là bản ý tiếp độ chúng sinh trở về của Bồ-tát Thế Chí.

Nay nói chính là thâu nhiếp hai hạng người tu môn niệm Phật khác và niệm Phật chính mình cùng Phật khác về nơi Tịnh độ Đồng Cư, đồng thời lại vượt thẳng lên cõi Phương Tiện, Thật Báo, Tịch Quang. Vì thế, kinh văn giảng sâu xa về lợi ích cảm ứng đạo giao.

b. Trình bày ý sâu kín của kinh:

Chọn lựa pháp Viên Thông giống như quốc gia dụng binh tuyển tướng: hoặc đưa lên làm tiên phong, hoặc đẩy xuống làm đoạn hậu. Cử người tiên phong, cắt người đoạn hậu là chánh, ngoài ra các người khác đều theo đội quân thông thường mà thôi. Việc đưa lên và đẩy xuống chẳng phải vô cớ mà làm.

Như trong mười tám giới[2], trước hết là Căn, kế đến là Trần, sau cùng là Thức, đó là lệ thường. Nay kinh này đặt sáu trần ra trước, đặt Căn tiếp theo đó. Trong sáu trần, trước hết là Sắc, tiếp đó là Thanh cho đến Hương, Vị, Xúc, Pháp; nay kinh này nêu Thanh đầu tiên, kế đến là Sắc. Trong sáu căn chỉ nêu năm căn, đem Nhĩ căn đặt sau hai mươi bốn môn Viên Thông, là vì thể thức giáo hóa chân thật ở phương này được trong sáng thanh tịnh nơi âm thanh và cái nghe. Vì thế, dùng âm trần (tức Thanh trần) để mở đầu, xếp Căn nghe vào cuối cùng nhằm riêng biệt trình bày tận tường về điều ấy. Tuy chẳng nói rõ nguyên do, nhưng mọi người đều biết rõ là đã chú trọng môn Viên Thông nơi Nhĩ căn. Yếu chỉ toàn kinh, cách thức liệt kê các pháp môn Viên Thông, lẽ đương nhiên phải như vậy.

Song, pháp môn niệm Phật cũng thích hợp với căn cơ ở phương này, chúng sinh đời mạt pháp phải nhờ niệm Phật để được độ thoát; như kinh này chỉ khuyên dùng một môn để tiến sâu vào, hiểu rõ thẳng nơi tự tánh. Nếu chọn lấy cả hai môn sẽ khiến ý kinh bị mờ mịt. Nếu xếp lẫn pháp môn niệm Phật vào các đội quân thường thì lại đánh mất ý nghĩa được khen ngợi rộng rãi trong các kinh khác. Bởi thế, Phật khéo bày phương tiện đưa lên và hạ xuống như mật lệnh trong quân đội chưa cho tiết lộ.

Vì thế, trong mười tám giới, kinh rút lấy Nhĩ căn làm viên tướng quan trọng, nhưng trong Thất đại lại ngầm chọn Căn đại làm trọng tướng. Mà Căn đại vốn thuộc về pháp môn niệm Phật nên đã không trái với tông chỉ khen ngợi rộng rãi trong các kinh khác, mà cũng chẳng nghịch ý nghĩa của Căn được dùng trong kinh này; có thể nói cực kỳ khéo léo, lại vừa cực kỳ sâu kín!

Thất đại theo thứ tự là Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không, Kiến, Thức. Kiến chính là cội gốc của các căn, lẽ ra Căn trước, Thức sau. Nay dời Thức vào vị trí thứ sáu, đặt Căn đại chót hết, cũng như xếp Nhĩ căn ở cuối Thập bát giới. Hơn nữa, trong năm đại trước, lấy Hỏa đại làm tiên phong, xếp Địa, Thủy, Phong, Không tiếp theo sau. Ở đây là có hai ý:

* Một là vì đương cơ rơi vào việc dâm mà nói ra giáo pháp nên dùng (hình ảnh) đa dâm chuốc lấy lửa hừng để cảnh tỉnh người nghe nhiều trước hết phải trừ dục lậu. Vì thế, trong kinh nói: “Người đa dâm (dâm ý) biến thành đống lửa cháy hừng hực, cho đến biến tâm đa dâm thành lửa trí tuệ. Chư Phật đặt tên cho tôi là Hỏa Đầu, tôi do sức Hỏa Quang Tam-muội mà thành A-la-hán, nguyện làm lực sĩ đích thân hàng phục ma oán”… rõ ràng để răn nhắc điều đó. Trong hết thảy kinh luật đều lấy giới không sát sinh làm đầu, kinh này thì lấy sự không dâm dục làm lời dạy rõ ràng quyết định bậc nhất. Trong ba duyên cũng lấy tham dục đặt trước giết hại và trộm cắp, đều là ý này.

* Hai là đối trị nghiệp chướng sâu nặng của chúng sinh trong đời mạt pháp. Bởi lẽ phiền não tuy nhiều, nhưng chỉ có dâm dục là cội gốc của sự sinh tử, là pháp gây chướng ngại vãng sinh nhất. Vì thế, Phật dạy người tu hành quán xét lửa dâm dục trong thân phàm phu chính là ngọn lửa chân thật rỗng không nơi Tánh Như Lai tạng, theo nghiệp mà biểu hiện. Quán sát sâu xa thì được tỏ ngộ, lửa dâm ấy thành ánh sáng trí tuệ, chẳng những không chướng ngại vãng sinh mà còn đưa người tu vượt lên Thượng phẩm. Bởi thế, ngài Duy-ma khen ngợi dâm nộ si, do vì tánh của chúng chính là Tánh Như Lai tạng, nhưng công dụng nhiễm tịnh của chúng chỉ trong khoảng úp ngửa bàn tay mà thôi. Vì thế, ngài Hỏa Đầu được đặt trước tiên (trong số Thánh chúng trần thuật pháp Viên Thông về Thất đại); cũng như ngài Trần Na (đứng đầu) trong Thập bát giới.

Xin hãy xem kỹ phần kinh văn tường thuật pháp Viên Thông của các bậc Thánh, trừ hai vị trọng tướng tiên phong ấy, ngoài ra đều y theo thứ tự thông thường chẳng xáo trộn, điều này có thể thấy được. Khi hai mươi lăm vị Thánh từ chỗ ngồi đứng lên lúc các vị đại đệ tử kết tập, mỗi một oai nghi, một hành động đứng ngồi đều có thâm ý, đều phù hợp giáo nghĩa. Dùng cái tâm thô thiển sao có thể lãnh hội được?

Thế thì, tuy một mình Bồ-tát Quán Thế Âm thi đỗ, lẽ nào ngài Thế Chí thi trượt hoàn toàn? Chỉ là Quán Âm thì được tuyển rõ ràng, còn Thế Chí thì tuyển ngầm mà thôi. Bởi vì vào riêng Nhĩ căn Viên thông cho nên tuyển chọn rõ ràng; vì thâu nhiếp chung cả sáu căn nên ngầm tuyển pháp niệm Phật. Vì thể thức giáo hóa ở phương này được rõ ràng là nhờ âm thanh và cái nghe nên tuyển rõ; vì cõi này có duyên nên ngầm tuyển. Khi có ích chung cho đương cơ thì phù hợp với chúng sinh thời hiện tại và vị lai, vì thế nên tuyển rõ. Có ích riêng cho chúng sinh đời ác lúc mạt pháp, chẳng được thấy Phật nên ngầm tuyển. Bảng hổ nêu cao ai nấy đều biết; áo đỏ chấm điểm ngầm nào ai biết đến.Vì thế mới nói “có điểm gây lầm lẫn lớn, cần phải khéo đọc khéo hiểu”.

Nếu có người bảo: “Đã là ý sâu kín sao lại tiết lộ? Trường thi tuyển Phật, Lăng-nghiêm yết bản đã hai ngàn năm rồi; nếu lúc ấy chẳng soi thấu được ý nghĩa sâu kín làm sao dùng được?”. Hoặc có người bảo: “Nếu đúng như lời ông nói thì lúc ngài Văn-thù nói kệ chọn lựa, lẽ nào Ngài cũng chẳng biết ý sâu kín, sao chẳng tuân theo lệ trên chọn hết tất cả?”.

Đáp: Các bậc Thánh khi trình bày chỗ Viên Thông đều nói là bậc nhất, nên phải mượn cách nâng lên hạ xuống khéo chỉ cơ sâu kín. Nếu lúc ngài Văn-thù vâng lệnh Phật tuyển chọn, cứ một mực y theo lệ trên thì làm sao trở thành ý nghĩa sâu kín? Nhưng chỉ có Thanh trần và Hỏa đại vẫn theo thứ tự thông thường. Vì hai môn này với ý riêng trợ giúp hiển bày chẳng phải là chỗ trở về trọng yếu, cho nên không nêu ra nữa. Ngay như pháp môn của ngài Thế Chí, theo mạch văn trường hàng đặt nằm sau phần nói về Thức đại, thành pháp cuối cùng trong hai mươi bốn môn Viên Thông, đâu không tuân theo thứ tự.

Phật đã dạy chọn lấy một môn, sao Bồ-tát Văn-thù chẳng chọn lấy môn của ngài Thế Chí? Xem lời Ngài phê bình pháp Viên Thông của ngài Thế Chí cũng khác với chư Thánh, Ngài chỉ nói: “Nay cảm nhân quả khác nhau, làm sao đạt Viên Thông?”. Ý nói: dù nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối, nhưng cái niệm tiếp nối ấy thuộc về Hành uẩn đổi dời, cũng là pháp sinh diệt, nhưng dùng đấy làm cái nhân để vãng sinh thấy Phật, ai bảo là không được! Nay, muốn chứng Viên Thông không sinh diệt ngay trong hiện tại thì nhân quả chẳng phù hợp, làm sao đạt được? Lời phê phán ấy nhắm vào việc chứng đạt Viên Thông trong hiện tại thì khó, chớ không luận về lợi ích sau khi vãng sinh.

Ngoài ra, chư Thánh chỉ niệm Phật chính mình là thuộc về tu chứng ngay hiện tại, nên ngài Văn-thù gạt bỏ hoàn toàn, vì những pháp ấy chẳng phù hợp với căn cơ cõi này, chẳng xứng hợp với thể thức giáo hóa ở phương này. Ai có chí tu chứng cũng nhân đây mà suy xét kỹ!

Đây là vì những người sức mạnh lòng tin chưa kiên cố mà nói, còn nếu ai tin tưởng Tịnh độ sâu sắc thì dù kinh Lăng-nghiêm chỉ chê mình Bồ-tát Thế Chí, người ấy cũng chẳng ngờ vực gì. Vì sao vậy? Vì các kinh đều khen ngợi rộng rãi như “công đức chẳng thể nghĩ bàn”, hoặc là “pháp mà thế gian khó tin”, hoặc “hết thảy chư Phật hộ niệm”, hoặc “thiền sâu mầu vô thượng”, hoặc “phương tiện thù thắng lạ lùng”, hoặc “vua các Tam-muội”, nhiều chỗ khen ngợi tột bậc như thế. Đã chẳng sinh lòng tin, chỉ có một chỗ chê bai sao liền nảy lòng ngờ?

Huống chi kinh Lăng-nghiêm chưa từng chê riêng pháp niệm Phật, lại còn bày tỏ đây là pháp tuyển ngầm! Đáng tiếc, chúng sinh đời mạt pháp đọc kinh này, đã chẳng thể y theo lời dạy từ Nhĩ căn thâm nhập để chứng Viên Thông ngay trong hiện đời, lại còn ưa khởi nghi hoặc đối với pháp môn niệm Phật, thậm chí phá hoại lòng tin trong sạch, chướng ngại hạnh lành của người khác. Kẻ trí mỏng phước ít thường quen thói như thế. Vì vậy, tôi nay phải y theo pháp nương kinh phân tích rõ ràng, chẳng tự biết là lời lẽ rườm rà, cũng là điều ngoài ý muốn thôi!

[1] Tứ y Đại sĩ: theo luận Niết-bàn nói gồm có: Bồ-tát Sơ địa, Lục địa, Bát địa, Thập địa.

[2] Mười tám giới: tức sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (có công năng phát sinh nhận thức); sáu cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp (đối tượng của sự nhận thức) và sáu thức nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức.