Tịnh Độ Cảnh Ngữ – Thích Minh Thành ( Phần 1 )

tịnh độ cảnh ngữ

Lời Tựa

Người đời ai cũng muốn tìm cầu hạnh phúc, nên chạy đuổi theo tiền của, sắc đẹp, danh vọng, quyền thế, ăn uống và ngủ nghỉ… Họ lầm tưởng rằng sẽ được vui sướng lâu dài, nhưng cuối cùng vẫn phải gánh chịu nhiều đau khổ!

Người vào đạo chán cõi Ta-bà xấu xa uế trược, chí tâm niệm Phật mong muốn vãng sinh, nhưng dù trải qua nhiều năm tháng thực hành vẫn không đạt được chỗ nhất tâm bất loạn?

Nguyên do là tại đâu? Bởi vì vô minh, mê lầm, cứ lầm cho mọi vật là thật, là bền lâu mãi mãi nên bám chấp vào đó… để rồi khi sự thật vô thường xảy ra thì đau khổ vô cùng. Thế nên, đạo Phật lấy việc nhận rõ lẽ thật (giác ngộ) làm chánh nhân để giải thoát. Lẽ thật đó chính là sự biến đổi vay mượn ở ngay nơi bản thân mình, tâm mình và sự vật chung quanh mình mình.

Vạn vật trên thế gian này dù lớn hay nhỏ, dù có tướng hay không hình, từ thân tâm cho đến hoàn cảnh đều là tạm bợ luôn biến đổi không dừng, được tồn tại, duy trì bằng sự vay mượn liên tục nên cuối cùng phải tan rã hoại diệt. Bằng trí sáng của mình mà chiêm nghiệm, nghiền ngẫm, xét nét tận tường, chắc chắn ai cũng có thể thấy rõ điều này.

Khi đã thấy rõ được sự huyễn hóa, tạm bợ ở nơi vạn vật rồi thì tự nhiên chẳng còn cái gì đáng để cho chúng ta lưu luyến hay nắm giữ nữa. Lúc đó, nơi lòng chỉ nhẹ nhàng A-di-đà Phật rõ ràng sáng suốt, thân tâm an định, trí tuệ tỏa chiếu hết sạch mê lầm, thuần nhất một tâm không loạn động. Ngay hiện tại tự mình rõ biết đã được dự vào hàng Thượng phẩm Thượng sinh, đâu phải đợi đến lúc lâm chung!

Người niệm Phật tuy thiết tha, nhưng trong lòng ai cũng còn dẫy đầy tham sân. Hơn nữa, cõi trần bên ngoài lại nhiều cạm bẫy ngũ dục bủa giăng, Tịnh Độ Cảnh Ngữ là những lời nhắc nhở hết sức chân thành, có giá trị thiết thực chỉ rõ con đường để người tu không lạc lối. Chiêm nghiệm từng lời, từng câu của ngài Hành Sách, chúng ta mới thấy được tấm lòng từ bi vô hạn của những người đi trước.

Do cảm nhận được giá trị chân thật của chánh pháp nên Đại đức Trụ trì chùa Hoằng Pháp, cùng các huynh đệ Pháp Đăng, Tâm Huệ và Phật tử Diệu Thiện… đã tận tâm tận lực hỗ trợ giúp đỡ để chúng tôi hoàn thành quyển sách này.

Chúng tôi tuy có tấm lòng nhiệt thành đối với những người cùng tu, nhưng sự hiểu biết còn nông cạn, trong khi phiên dịch sẽ không sao tránh khỏi những điều sai lầm sơ thất. Kính mong các bậc Tôn đức và pháp hữu mười phương niệm tình chỉ giáo. Thành kính tri ân vô lượng!

Khuyên phát lòng tin chân thật

Người tu trước nay đều ưa thích Niệm Phật Tam-muội[1]. Từ Tổ Huệ Viễn phát khởi ở Lô Sơn, mở đầu Liên Xã[2], sáu thời thực hành tịnh hạnh, dần dần trở thành lề lối tốt đẹp từ nghìn xưa.
Tuy nói công cao dễ tu tiến, mà người tu thời mạt pháp ít được hiệu nghiệm, ấy bởi do tín nguyện không chuyên, nên chưa thể dẫn đến hạnh lành để trở về cõi tịnh.

Nay đã mời nhiều bạn lành cùng nhau tu tập nhân thanh tịnh, nếu không xét kỹ chỗ phát tâm, đâu biết rõ đường lối thoát khổ.

Chúng ta dự vào pháp hội này, cần phải đầy đủ lòng tin chân thật. Nếu không có lòng tin chân thật, tuy ăn chay, niệm Phật, phóng sinh, tu phước, chỉ là người lành ở thế gian, duy hưởng phước báo cõi trời, người. Lúc hưởng phước vui thì tạo nghiệp, đã tạo nghiệp ắt phải rơi vào nẻo khổ. Dùng cái nhìn chân chính mà xét về điều này, chỉ hơn hạng Xiển-đề[3], Chiên-đà-la[4] một bước. Lòng tin như thế, đâu phải là chân thật!

Nói lòng tin chân thật nghĩa là:

– Thứ nhất phải tin:

Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không khác biệt. Ta là Phật chưa thành, đức Di-đà là Phật đã thành. Tánh giác không hai. Ta tuy điên đảo mê lầm, nhưng tánh giác chưa từng mất. Ta tuy nhiều kiếp luân chuyển, nhưng tánh giác chưa từng động. Nên nói:

Đừng xem thường người chưa ngộ,

Một niệm soi lại liền đồng với bản đắc[5].

– Thứ hai phải tin:

Ta là Phật lý tánh, Phật danh tự.

Đức Di-đà là Phật cứu cánh. Tánh tuy không hai nhưng ngôi vị thì cách xa như trời với vực. Nếu không chuyên niệm đức Phật ấy, cầu sinh về cõi Tịnh, ắt phải theo nghiệp lưu chuyển, chịu khổ vô cùng!

Đây gọi là Pháp thân lưu chuyển trong năm đường[6], chẳng gọi là Phật mà gọi là chúng sinh.

– Thứ ba phải tin:

Ta dù nghiệp sâu chướng nặng, sống lâu nơi cảnh khổ, vẫn là chúng sinh trong tâm Phật Di-đà. Phật Di-đà tuy muôn đức trang nghiêm ở xa ngoài mười muôn ức cõi, cũng là đức Phật trong tâm chúng ta. Đã là tâm tánh không hai, tự nhiên đạo cảm ứng qua lại. Sự thiết tha của ta ắt có thể cảm. Lòng từ bi của Phật ắt có thể ứng. Như đá nam châm hút sắt, việc nầy không thể nghi ngờ. Đây gọi là:

Phật nhớ chúng sinh như mẹ nhớ con.

Con nếu nhớ mẹ như mẹ nhớ con, thì mẹ con dù trải qua nhiều đời cũng chẳng xa nhau.

Nếu tâm chúng sinh nhớ Phật, niệm Phật, trong hiện tại, tương lai nhất định sẽ thấy Phật, cách Phật không xa.

Đủ lòng tin chân thật như trên, dù chút phước điểm lành như hạt bụi mảy lông, đều có thể hồi hướng Tây Phương trang nghiêm Tịnh độ. Huống chi trì trai giữ giới, bố thí, phóng sinh, tụng kinh điển Đại thừa, cúng dường Tam Bảo, tu các hạnh lành, lẽ nào không đủ làm tư lương Tịnh độ sao?

Chỉ e lòng tin không chân thật, mới khiến đắm chìm nơi hữu lậu. Cho nên, trong việc tu hành hiện nay, không có bí quyết gì khác, chỉ trong hai mươi bốn giờ củng cố thêm ba niềm tin chân thật này thì tất cả sự thực hành không phiền phải sửa đổi!

Nếu muốn bỏ môn này để bàn luận công phu huyền diệu khác thì những bậc Tông sư ở các nơi rất nhiều, đạo tràng ở khắp mọi nơi hãy tìm đến thưa hỏi, chẳng cần phải dừng chân nơi Liên Xã này.

Nếu quả thật tâm danh lợi đã hết hẳn, chí nguyện chung đồng, thời tiết nhân duyên hân hạnh cùng nhau thường hội tụ. Sớm chiều niệm Phật, trọn ngày sáu thời trì danh. Xưa nay như thế, nếp cũ vẫn còn chưa mất. Mới mong đời sau làm nhịp cầu thân cận dẫn dắt nhau tu hành, kiếp này làm phương tiện giúp đỡ cùng chung tiến bước.

Mong rằng chúng ta ai nấy đều cố gắng!

[1] Niệm Phật Tam-muội: Tam-muội lấy niệm Phật làm nội dung quán tưởng, cũng là một loại Tam-muội quán niệm công đức của chư Phật hoặc xưng niệm danh hiệu chư Phật.

Niệm Phật Tam-muội có hai loại:

– Nhân hành niệm Phật Tam-muội: có ba thứ là quán tướng hảo của Phật, quán Thật tướng pháp thân và xưng danh niệm Phật.

– Quả thành niệm Phật Tam-muội: ba loại nhân hành đã nói trên được thành tựu.

[2] Liên Xã: hội đoàn Bạch Liên lấy sự niệm Phật làm tông chỉ tu hành, bắt nguồn từ việc lập hội niệm Phật của ngài Huệ Viễn đời Đông Tấn. Năm 384 đời Đông Tấn, ngài Huệ Viễn vào Lô Sơn ở chùa Đông Lâm, Hổ Khê. Tăng tục khắp nơi nghe tiếng Ngài đồng vân tập đến cầu đạo.

Tháng 07 năm 402, có 123 người gồm các vị Huệ Vĩnh, Huệ Trì, Đạo Sâm, Lưu Di Dân, Tông Bính, Lôi Thứ Tông… cùng nhau thiết trai trước tượng Phật Vô Lượng Thọ thờ ở đài Bát-nhã chùa Đông Lâm, đồng thệ nguyện lập hội niệm Phật chuyên tu Niệm Phật Tam-muội để cầu vãng sinh Tây Phương. Do ao trong chùa có trồng nhiều hoa sen trắng, hơn nữa, hội đoàn lại nguyện cầu về nước hoa sen nên hội lấy tên là Bạch Liên Xã.

Sau đó, người theo tu học ngày càng đông dần, mở đầu cho Tịnh độ giáo phát triển. Cuối đời Đường, đầu đời Tống, Tịnh độ giáo rất thịnh hành. Những người đồng chí hướng cùng lập đạo tràng Tịnh độ siêng tu Tịnh nghiệp, tất cả đều tôn ngài Huệ Viễn là vị Tổ đầu tiên của Liên Xã. Niệm Phật Liên Xã lấy kinh Bát Chu Tam-muội làm tư tưởng chủ đạo, lấy việc thấy Phật vãng sinh làm mục đích.

Đến năm 1308, đời Nguyên, Liên Xã bị ngăn cấm. Lúc bấy giờ, ngài Ưu Đàm Phổ Độ (? – 1330) ở chùa Đông Lâm dâng lên vua bộ Lô Sơn Liên Tông Bảo Giám (10 quyển) để làm sáng tỏ yếu chỉ của Liên Tông; do đó vua mới bãi bỏ lệnh cấm và phong cho Ngài làm giáo chủ. Trải qua các triều Minh, Thanh đến nay vẫn còn những người lập hội niệm Phật. Phong trào lập hội niệm Phật cũng lan truyền đến Nhật Bản, Triều Tiên và rất thịnh hành.

[3] Xiển-đề: là người mất hết căn lành, không có lòng tin đối với Phật pháp, khó có điều kiện để giác ngộ.

[4] Chiên-đà-la: là giai cấp thấp nhất trong xã hội Ấn Độ, chuyên làm những nghề lính ngục, buôn bán, mổ giết, săn bắn, câu cá…

[5] Bản đắc: chỉ cho tâm sáng suốt thanh tịnh vốn sẵn có của tất cả chúng sinh.

[6] Năm đường: chỉ cho Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, Nhân và Thiên.

Khuyên bảo 1

Thuở xưa, Hòa thượng Chơn Hiết nói rằng:

Phật Phật trao tay,

Tổ Tổ truyền nhau,

Chỉ một việc nầy,

Không còn việc khác.

Đức Phật Thích-ca ở đời bảy mươi chín năm, thuyết pháp hơn ba trăm hội, riêng đối với giáo lý Tịnh độ ân cần khen ngợi không ngừng. Đâu không phải cho đây là con đường thẳng tắt, siêu phàm nhập Thánh sao?

Song, pháp môn này thật dễ mà cũng thật khó. Phàm chấp trì danh hiệu, tu mọi phước lành, chí tâm hồi hướng, liền được vãng sinh. Nếu được vãng sinh thì dứt ngang sáu nẻo[1], mau chóng ra khỏi ba cõi[2], tiến thẳng đến địa vị không thối chuyển, chẳng trải qua nhiều kiếp, há chẳng phải là giản dị hay sao?

Nếu như sự nghiệp ở cõi Ta-bà nơi nơi ràng buộc trong lòng; còn đối với việc niệm Phật, tâm không chuyên nhất một nóng mười lạnh. Khi gặp ngũ dục thì dính chặt như keo sơn, lúc gặp nghịch cảnh thì kết oán ôm hận. Như thế mà muốn lâm chung được Phật Di-đà tiếp dẫn, đương nhiên là không thể được. Vì thế, nên nói rằng khó.

Do đây mà xét:

Pháp môn Tịnh độ là thuốc.

Lòng tham ái nơi Ta-bà là điều cấm kỵ.

Chúng sinh mắc bệnh nghiệp, dạy bảo nên tin theo bậc Y Vương. Nhưng vừa mới uống thuốc lại dùng những thứ cấm kỵ, như thế làm sao được hiệu nghiệm? Đến khi sắp mạng chung, nghiệp nào nặng thì theo đó đọa lạc. Tịnh nhân yếu kém, khó thoát nỗi khổ luân hồi. Trở lại bảo rằng bậc Y Vương lừa dối người, Phật pháp không hiệu nghiệm. Thật đáng buồn thay! Những người như thế rất là sai lầm điên đảo!

Sao chẳng nhớ mười tám bậc Cao hiền ở Liên Xã Lô Sơn, cho đến một trăm hai mươi ba người đều lưu lại điềm lành vãng sinh còn được ghi lại đầy đủ trong sử sách? Nhật nguyệt xưa nay vẫn thế, non sông xưa nay vẫn thế. Kia đã là bậc trượng phu, ta lẽ nào chẳng phải! Nên biết, sở dĩ chúng ta không được như người xưa, chỉ vì không buông bỏ nổi chỗ quý trọng mà thôi.

Phàm là người đồng hội với tôi, tăng tục, già trẻ đều nên xét nghĩ sâu sắc về sự hiểm ác của Ta-bà mà sớm mong cầu ra khỏi. Quanh quẩn trong sáu đường, tiêu dao nơi chín phẩm[3]; việc lợi và hại cách xa nhau như trời với vực. Nên tỉnh giác mạnh mẽ!

Phải phát sinh lòng rất chán nản Ta-bà, ưa thích miền Cực Lạc. Bỏ uế lấy tịnh. Tin sự lấy bỏ này cùng không lấy bỏ vốn chẳng khác nhau.

Đừng đuổi tìm hư danh, đừng chấp lấy cái thấy không, đừng ham cao siêu huyền diệu, mà bị chánh định trên đầu môi của thiền giả làm mê lầm rối loạn!

Chớ mong cầu hiệu nghiệm nhanh chóng trong một sớm một chiều, vọng tưởng trông mong ngoài tâm có Phật đến đón rước, như vậy dễ dẫn đến các việc ma!

Không luận lúc ở nhà hay khi vào Liên
Xã, luôn luôn lấy việc niệm Phật làm chánh hạnh, dùng sự cố gắng tu các điều lành làm trợ hạnh. Lại đối với tập khí tham dục, sân hận tận lực lau chùi mài dũa, khiến cho chỗ nặng nề được trở nên nhẹ nhàng, chỗ chưa thuần thục dần dần thuần thục. Tịnh niệm tiếp nối, nguyện hạnh trợ nhau, tự nhiên hoàn toàn ổn thỏa.

Trong các hạnh thì phóng sinh là điều lành cao nhất. Nên xét kỹ: chúng vốn đồng tánh biết với ta, dù thuộc loài khác mà còn phải cứu tế, huống là người đồng loại với ta! Họ vì chướng sâu nghiệp nặng, nên có người không bao lâu thì bị rơi vào đường ác, có người hiện tại chịu khổ nơi địa ngục. Nỗi khổ nơi địa ngục kia hơn cả sự đau đớn chém giết, đốt thiêu nơi thế gian rất nhiều, gấp cả trăm ngàn lần. Sao lại có thể ở đây, bỏ mặc ngoài tai không lo cứu vớt?

Song, phương pháp cứu vớt cũng chỉ ở ngày nay, nhất tâm niệm Phật để mau chóng về An Dưỡng. Sau đó nương bản nguyện, vận dụng đại thần lực, hưng khởi lòng từ bình đẳng, mở rộng tâm bi đồng thể, phân thân chia hình ở các đường ác khắp cõi nước mười phương. Tầm thinh cứu khổ như Bồ-tát Quán Thế Âm, thề nguyện làm trống không địa ngục như Bồ-tát Địa Tạng Vương. Nhổ sạch nhân khổ, quả khổ của tất cả chúng sinh. Cho tất cả họ niềm vui thế gian và xuất thế, thâu nhận tất cả muôn loài đồng hầu cận từ phụ Di-đà, đến nơi hoàn toàn an ổn. Đầy đủ chí nguyện như thế mới là bậc trượng phu. Nếu không đầy đủ chí nguyện như thế thì đến kỳ hội tụ ở đây dài đăng đẳng, dù có niệm Phật phóng sinh cũng chỉ là việc tụ hội tầm thường, lẽ nào lại nói không phước thì chẳng thu nhận.

Đó là điều mà tôi mong mỏi đối với chư Thượng thiện hữu. Mong các vị xét nét thật kỹ càng!

[1] Sáu nẻo: chỉ cho sáu đường thọ sinh tùy theo nghiệp lực của chúng sinh: 1. Địa ngục; 2. Ngạ quỷ; 3. Súc sinh; 4. Tu-la; 5. Người; 6. Trời. Trong đó, ba đường trước gọi là ba ác đạo, ba đường sau gọi là ba thiện đạo.

[2] Ba cõi: chỉ ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

[3] Xem phần “Trình bày sơ lược về chín phẩm” trang 65.

Khuyên bảo 2

Pháp môn Tịnh độ tuy chư Phật, chư Tổ cùng chung khen ngợi, nhưng bậc sĩ phu đương thời đối với giáo lý cả đời của đức Phật chưa từng để mắt.

Nếu chẳng phải trước kia đã có căn lành thì sao lại được nghe rồi tin tưởng sâu sắc! Nay nêu sơ lược một hai bộ kinh lớn và luận quan trọng, để khái quát những kinh luận khác, giúp cho mọi người biết được sự thù thắng của pháp môn này, dễ sinh lòng tin tưởng ưa thích.

Như một bộ kinh Hoa Nghiêm là giáo môn rộng lớn, vua trong các kinh. Ví tợ vầng nhật tỏa sáng giữa trời không, át cả ánh sáng của những vì tinh tú, như Tu-di[1] sừng sững giữa biển cả cao vượt mọi núi non. Kinh ấy nói về thế giới thì không bảo là nhiều như số cát sông Hằng, mà gọi là cõi Phật nhiều như số cát bụi không thể nói được. Bồ-tát Phổ Hiền dùng sức trí huệ thông suốt, chỉ một cái nhìn mà xem khắp vô biên biển Hương Thủy, vô biên cõi nước, như trái cây đặt trong lòng bàn tay. Từ gần đến xa, tùy theo phương diện nhất nhất chỉ bày danh hiệu tướng trạng.

Thế giới Cực Lạc ở trong cõi Tỳ-lô-giá-na. Cõi ấy có hai mươi tầng, trên rộng dưới hẹp, hình dáng như ngôi tháp ngược. Ta-bà và Cực Lạc đồng ở tầng thứ mười ba. Trong tầng nầy, có những thế giới nhiều như số cát bụi của mười ba cõi Phật chung quanh. Thế giới Cực Lạc là một trong số đó.

Những thế giới trong cõi Tỳ-lô-giá-na này nhiều cũng như tất cả số lúa thu hoạch trong một trăm năm ở Thiệm-bộ châu[2], sau đó gom lại thành một ngọn cao. Thế giới Cực Lạc ở trong ấy cũng giống một hạt lúa, huống gì lại còn có vô biên thế giới ở ngoài cõi ấy, không thể nào luận bàn tính toán được.

Kinh văn rộng lớn như thế, mà chỗ kết thúc sau cùng lại lấy mười đại nguyện vương dẫn về Cực Lạc, chỉ khuyên sinh về thế giới An Dưỡng, chỉ nguyện gặp Phật A-di-đà. Những lời khẩn thiết khuyến khích phát tâm dặn bảo nhiều lần, đều đầy đủ ở trong phẩm Hạnh Nguyện. Nơi đây, không thuật lại dài dòng.

Hơn nữa, sau khi đức Phật diệt độ sáu trăm năm, có Đại sĩ Mã Minh – tổ thứ mười hai ở Ấn Độ, ứng theo lời huyền ký của đức Phật, trùng hưng chánh pháp. Ngài y theo nghĩa lý của một trăm mười vạn quyển kinh điển Đại thừa, tạo thành một bộ luận tên là Khởi Tín. Luận này có thể khiến cho chúng sinh thời mạt pháp phát khởi lòng tin chân chánh về Đại thừa, ví như trên gấm thêu hoa; lấy trăm hoa làm mật.

Luận ấy lập ngôn và phân tích nghĩa lý tận cùng vi diệu, đã trình bày đầy đủ tất cả các pháp môn, nhiều thứ Tam-muội[3], khiến mọi người tu tập đều được lòng tin chân chánh. Ngoài ra, Ngài còn chỉ bảo trong tất cả các pháp môn, mọi thứ Tam-muội đều khó tu dễ lui sụt. Sau cùng mới dạy phương tiện thù thắng của chư Phật, nói rằng:

Lại nữa, các vị Bồ-tát mới học ở thế giới Ta-bà này, hoặc gặp những nỗi khổ nóng lạnh, gió mưa trái thời, đói kém… Hoặc thấy chúng sinh bất thiện đáng sợ, bị ba độc ràng buộc, làm theo việc ác.

Bồ-tát ở trong ấy sinh tâm sợ sệt, e không thể thành tựu lòng tin thanh tịnh. Các vị này phát sinh nghi ngờ muốn thối lui, nên phát thệ nguyện nhất tâm chuyên niệm danh hiệu Phật.

Bồ-tát do sinh tâm quyết định, nên ở đây vừa mạng chung liền được vãng sinh trong các cõi Phật, gặp Phật, Bồ-tát, lìa hẳn đường ác.

Như trong kinh nói:

Thiện nam tử, thiện nữ nhân, chuyên niệm Phật A-di-đà ở thế giới Cực Lạc phương Tây, đem các căn lành hồi hướng nguyện vãng sinh, thì quyết định được vãng sinh, thường thấy đức Phật ấy, lòng tin tăng trưởng, mãi không còn thối chuyển, được vào Chánh vị.

Thế nên biết, khi Phật còn tại thế thì có Văn-thù, Phổ Hiền. Sau khi Phật diệt độ thì có Mã Minh, Long Thọ. Chư Đại sĩ như thế, đều khuyên vãng sinh, lại tự mình nguyện vãng sinh, thân cận Phật A-di-đà. Những kinh khác như Bảo Tích, Đại Tập, trong các bộ kinh lớn đều tán dương khuyến khích, không dễ gì nêu ra hết.

Song, Tịnh độ của chư Phật trong mười phương vô lượng mà kinh luận thường chỉ về Cực Lạc, tóm lược có ba ý:

· * Một là vì đức Phật ấy có nhân duyên với người ở cõi này nên chẳng kể là sang hèn, ngu trí, già trẻ, đều biết danh hiệu Phật A-di-đà. Nếu có đau khổ, oan ức thì tự nhiên ai cũng liền niệm danh hiệu Ngài.

· * Hai là vì Tỷ-kheo Pháp Tạng[4] nguyện lực thù thắng, nên thu nhiếp sự trang nghiêm của hai mươi mốt ức cõi Phật thanh tịnh, tổng hợp thành một thế giới Cực Lạc trang nghiêm. Ngài phát bốn mươi tám thệ nguyện rộng lớn, tiếp dẫn khắp cả chúng sinh niệm Phật trong mười phương sinh về cõi nước của Ngài. Bởi lẽ, quả đức của chư Phật tuy thật bình đẳng, mà nguyện lực trong khi tu nhân tự nhiên thâu nhận chúng sinh, trong chỗ không sai biệt mà có sai biệt.

· * Ba là Phật A-di-đà tức là Pháp giới tàng thân, thế giới Cực Lạc tức là Liên Hoa Tạng Hải. Thấy một đức Phật tức là thấy muôn Phật; vãng sinh một cõi tức là vãng sinh vô lượng cõi; niệm một đức Phật tức là niệm tất cả Phật, thì được tất cả chư Phật hộ niệm. Do Pháp thân không có hai nên chúng sinh và Phật không hai; người hay niệm và Phật được niệm cũng không có hai.

Các kinh luận tuy khen ngợi rộng rãi, nhưng chúng sinh ở cõi này ban đầu không ai biết, chỉ có ngài Huệ Viễn đời Tấn phát khởi ở Lô Sơn, lập ra Liên Xã đầu tiên, nhất thời các bậc Hiền đức, Nho sĩ nổi tiếng không hẹn mà tự đến như Lưu Di Dân[5] và Tông Lôi… đều tín phục thỉnh giáo, đạo này bèn hưng thịnh.

Sau đó, từ đời Tống tới nay, Thiền học dần dần phát triển mạnh mẽ, các sĩ đại phu có trí thức phần nhiều rất ngưỡng mộ Tông môn, ưa chuộng cao siêu khác lạ.

Nhưng khoảng hơn ngàn năm trở lại đây, người thật có thể thấy tánh chẳng qua chỉ có Dương Ức Thị Lang[6], Lý Tuân Úc Phụ Mã[7] và Hứa Thức Lang Trung[8] vài người mà thôi. Ngoài ra, đều là những kẻ dạo chơi nơi cửa Thiền. Do đó, khiến cho pháp môn thù thắng không thể nghĩ bàn bị xem là việc làm của hàng ngu phu ngu phụ.

Khoảng giữa thời gian nầy có năm ba vị tôn túc lần lượt noi theo người trước tiến hành giải bày, nhưng chưa hẳn tiếp độ nhiều hàng cao lưu và giáo hóa rộng khắp mọi căn cơ. Mãi đến cuối đời Minh mới xuất hiện Đại sư Châu Hoằng ở Vân Thê. Đại sư nương bi nguyện đời trước, thấm nhuần Nho học, siêu xuất thế tục, chuyên hoằng truyền Tịnh nghiệp.

Các bậc danh hiền đương thời quy hướng tin tưởng rất nhiều, những người nghi ngờ chê bai, phản đối vấn nạn cũng không ít. Đại sư dùng tài hùng biện tuyệt diệu, bách chiến bất khuất nên nhờ đó trở thành niềm vui pháp hỷ. Do vậy, tăng tục vui vẻ tín phục dường như Tổ Huệ Viễn sống lại, Ngài Vĩnh Minh tái thế, pháp môn Tịnh độ lại được rất hưng thịnh. Như thế, dựng lại pháp môn đã suy yếu hơn ngàn năm, công đức của Ngài không phải vĩ đại lắm sao?

Than ôi! Nay đã qua rồi! Con đường thời mạt pháp tối tăm, sự cấu nhiễm của chúng sinh trầm trọng. Trong đường hiểm ác mà mất ông thầy dẫn đường sáng suốt. Thật đáng lo buồn thay!

Tôi sinh muộn, chẳng được kề cận bên Đại sư (Châu Hoằng). Vì vậy, tôi trân quý những lời dạy còn để lại của Ngài còn hơn châu ngọc, mỗi lần mở sách ra đọc, liền không thể cầm lòng, nước mắt đầm đìa, tâm ý phấn phát mạnh mẽ.

Từ khi ở chùa Phổ Nhân này đến nay, thường được các bậc Hiền đức, hội tụ sáu thời hành đạo, hợp với tâm nguyện của tôi.

Song, mỗi lần gặp một bạn cùng hội thì tôi không dám xem là người thế tục, trong lòng thầm nghĩ: “Trong cõi nước Hoa Sen lại có thêm một người bạn tốt. Xưa, đức Bổn sư Thích-ca huyền ký cõi nầy có sáu mươi bảy ức Bồ-tát vãng sinh nước kia. Người này ắt là một trong số đó”.

Tuy biết, đường dài đăng đẳng nên người thối lui rất nhiều. Nhưng đã phát tâm niệm Phật tức là đi vào biển nguyện của Phật Di-đà rồi, như người ăn chút kim cương thì rốt cuộc vẫn không thể tiêu hóa được. Dù siêng lười, mau chậm không đồng, cuối cùng ắt sinh về Cực Lạc. Đã sinh về Tịnh độ thì rốt cuộc được chứng quả, thị hiện tám tướng thành đạo[9], hóa độ khắp cả chúng sinh.

Thế nên, hiện nay những người vừa vào trong hội, tôi liền mong rằng quý vị đều là chư Phật tương lai. Đây là lời nói chân thành, nhưng không biết các bạn tự mong đợi thế nào? Nếu có thể mong đợi như thế, thì các bạn lành hiện giờ đều là nhụy sen liền cành với tôi.

Tôi xét thấy những người giàu có, thành đạt lợi lộc hiện nay:

* Hoặc tham thinh sắc thô, chẳng biết cội gốc đau khổ.

* Hoặc tham đắm công danh nhỏ nhặt, chẳng nhận rõ là hư huyễn.

* Hoặc lại ưa tăng thêm tài lợi, bàn tính
kinh doanh, hiện tại bận rộn cả đời, tương lai theo nghiệp trôi nổi.

Trong cõi Phật ấy, y báo chánh báo trang nghiêm, vô lượng việc vui thù thắng mà họ chẳng nghe chẳng biết. Từ khi sinh ra đến lúc chết, chưa từng phát một niệm tâm hướng về, lại không bằng kẻ khốn cùng ngu tối mà phần nhiều có thể niệm Phật được. Những người tuy ngu tối này là từ nơi ngu tối đi vào chỗ sáng, tất chuyển sinh nơi tốt đẹp.

Thế nên, nay kính khuyên các bạn đều đã nêu danh vào Liên Xã thì đã là hoa Ưu-đàm[10] trong nhà lửa. Các vị nên đủ nguyện chân thật, phát tâm chán nản và ưa thích:

* Xem ba cõi như ngục tù.

* Xem nhà cửa như xiềng xích.

* Xem thinh sắc như thuốc độc.

* Xem danh lợi như gông cùm.

* Xem sự cùng đường và thông thoát đã gặp trong mấy mươi năm in như giấc mộng hôm qua.

* Xem cuộc sống trong Ta-bà như ở nơi quán trọ, mà tin rằng qua đêm rồi sẽ bỏ đi.

Chỉ lấy việc về nhà làm cốt yếu, vừa lòng cũng được, không vừa lòng cũng được; rảnh được phút giây liền nhất tâm niệm Phật. Nếu được như thế mà không vãng sinh Tịnh độ thì chư Phật đều trở thành những người nói dối.

Mong rằng chúng ta cùng nhau cố gắng!

[1] Tu-di: vốn là ngọn núi trong thần thoại Ấn Độ, được Phật giáo sử dụng, cho rằng đây là ngọn núi cao đứng sừng sững ở chính giữa một Tiểu thế giới. Lấy núi này làm trung tâm, có tám lớp núi, tám lớp biển bao bọc chung quanh, hình thành một thế giới (Tu-di thế giới).

[2] Thiệm-bộ châu: xưa gọi là Nam Diêm-phù-đề. Người dân ở đây dũng mãnh, nhớ dai, tạo các hạnh nghiệp, tu phạm hạnh, có Phật xuất thế.

[3] Tam-muội: an trụ tâm vào một chỗ, một cảnh; tức chỉ cho trạng thái thiền định.

[4] Pháp danh của đức Phật A-di-đà lúc Ngài chưa thành Phật.

Theo kinh Vô Lượng Thọ, thượng, nhiều kiếp lâu xa về đời quá khứ, vào thời Thế Tự Tại Vương Như Lai, có một vị quốc vương nghe đức Phật thuyết pháp, liền phát tâm vô thượng, bỏ ngôi vua xuất gia, hiệu là Pháp Tạng. Ngài thấy được hai trăm mười ức cõi nước của chư Phật, nên phát 48 lời đại nguyện. Vì giáo pháp mà Ngài hộ trì không mất và tích tụ rất nhiều, cho nên kinh Vô Lượng Thọ dịch là Pháp Tạng (Dhar-makara); Hội Vô Lượng Thọ Như Lai trong kinh Đại Bảo Tích 17, đời Đường dịch là Pháp Xứ; kinh Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, đời Tống dịch là Tác Pháp; luận Đại Trí Độ thì dịch là Pháp Tích.

[5] Lưu Di Dân: người đời Tấn, tự là Trọng Ân, tên Trình Chi, cư ngụ tại Bành thành. Ban đầu, ông giữ chức Tham quân, lại được bổ làm Huyện lệnh Nghi Xương, Sài Tang. Sau đó, từ chức cùng với Châu Tục Chi, Đào Tiềm… ẩn cư, người đương thời gọi là “Tầm Dương tam ẩn”. Hiệu “Di Dân” tương truyền là do vua Võ đời Lưu Tống ban cho, bởi tính bất khuất của ông. Về sau, vào Lô Sơn, tôn ngài Huệ Viễn làm thầy, cất một am nhỏ trong núi chuyên tu pháp Thiền suốt mười lăm năm, thường cảm được ánh sáng của Phật. Ông cùng với ngài Huệ Viễn kết Bạch Liên Xã tại chùa Đông Lâm, thệ nguyện vãng sinh Tịnh độ. Ông viết văn phát nguyện, từ ý thanh nhã đến nay vẫn còn truyền tụng không dứt. Mùa đông, năm thứ sáu niên hiệu Nghĩa Hy, ông biết trước ngày giờ dâng hương lễ Phật, ngồi ngay ngắn hướng mặt về phương Tây qua đời, thọ được 59 tuổi. Tác phẩm ông còn để lại một quyển Huyền Phổ.

[6] Dương Ức: người ở Phố Thành (Phước Kiến – Kiến Âu) thời Bắc Tống, tự là Đại Niên. Thuở nhỏ, nổi tiếng về văn chương, vua Thái Tông từng triệu vào cung tận mặt thi vấn đáp. Vua khen ngợi ông là Thần đồng. Đến đời vua Chân Tông, ông đảm nhiệm những chức vụ như: Hàng Lâm Học Sĩ, Thị Lang… Ông giữ mình trong sạch ngay thẳng, không sợ quyền thế. Ban đầu, không biết Phật pháp, nhờ Học sĩ Lý Duy khuyến khích tìm hiểu pháp Thiền, bèn khởi niềm tin sâu sắc. Sau đó, tu học với Thiền sư Quảng Huệ ở Nhữ Châu và được pháp. Ông thường dốc sức trợ giúp pháp môn, nhất thời các sĩ phu học Phật suy cử ông làm người lãnh đạo. Lại thường phụng chiếu lệnh biên tập mục lục Đại tạng, hiệu đính Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, giữ chức nhuận văn trong viện dịch kinh. Năm thứ tư niên hiệu Thiên Hy, ông có chút bệnh, viết kệ để lại cho Lý Tuân Úc rồi qua đời, thọ được 47 tuổi. Có văn tập lưu hành ở đời.

[7] Lý Tuân Úc: hiệu là cư sĩ Hòa Văn, đắc pháp với Thiền sư Uẩn Thông. Ban đầu khi tham vấn, ngài Uẩn Thông lấy công án Thôi Triệu Công hỏi ngài Kính Sơn để đáp cho ông. Ngay lúc ấy ông tỉnh ngộ.

[8] Hứa Thức: giữ chức Thái Thú ở Hàng Châu, tham học với ngài Động Sơn được thấu suốt chỗ cốt lõi của chánh pháp.

[9] Tám tướng thành đạo: 1. Từ trời Đâu-suất mà xuống; 2. Vào thai; 3. Sinh ra; 4. Xuất gia; 5. Hàng phục ma quân; 6. Thành đạo; 7. Xoay chuyển bánh xe chánh pháp; 8. Vào Niết-bàn.

[10] Ưu-đàm: Thực vật ẩn hoa thuộc họ cây dâu, sống dưới chân núi Hymalaya, cao nguyên Deccan và Sri Lanca. Thân cây cao hơn 3 m, lá có hai loại. Loại thứ nhất trơn và phẳng, loại thứ hai thô nhám, đều dài từ 10 đến 18 cm, đầu nhọn hơi dài. Có hoa đực hoa cái khác nhau. Loại có đài hoa lớn thì như nắm tay, còn loại nhỏ bằng ngón tay cái, kết thành chùm hơn 10 hoa, mọc trên thân cây, tuy ăn được nhưng vị không ngon. Theo Huệ Lâm Âm Nghĩa 8, loại hoa này do điềm lành linh dị chiêu cảm, là loại thiên hoa, thế gian không có. Nếu Như Lai hạ sinh thì nhờ năng lực đại phước đức của Ngài mà chiêu cảm loại hoa này xuất hiện. Vì loại hoa này ít có, khó gặp, nên trong các kinh Phật giáo có rất nhiều chỗ dùng hoa này dụ cho việc khó gặp Phật ra đời.

Khai thị hội niệm Phật ba năm

Phàm muốn dự kỳ niệm Phật, để cho công hạnh không uổng phí, nên phát ba thứ tâm làm phương tiện:

  1. Phát tâm quý tiếc thời gian:

Tuy ước định ba năm nhưng thời gian không là mấy. Người xưa ví dụ như bệnh sốt rét liên tiếp nhiều ngày, phát ba phen nóng lạnh, đến kỳ liền cáo chung.

Trong thời gian này, nếu không chuyên cần sách tấn thân tâm, tranh thủ từng giây từng phút thì sẽ cho rằng ba năm này là lâu dài. Nếu cho là lâu dài thì buông trôi năm tháng, mê hoặc tâm hồn, dễ phát sinh chán nản mệt mỏi, công phu tịnh nghiệp chẳng được thành tựu. Như thế thật đáng tiếc!

Huống chi mạng sống chỉ trong hơi thở, ai đảm bảo là ba năm? Dù cho qua khỏi ba năm, lẽ nào có thể giữ được lâu dài? Bảo rằng giống như tù nhân đi đến pháp trường, như loài dê đi đến lò sát sinh, mỗi bước mỗi bước gần kề cái chết!

Cần phải chuyên chú ngày đêm, quên hẳn nóng lạnh, một câu niệm Phật không khi nào dừng nghỉ. Được như vậy thì không cần Phật Di-đà tiếp dẫn về Tịnh độ, nhưng quyết định sẽ được vãng sinh.

Hễ là người đồng hành với tôi, hãy cẩn thận đừng trước siêng sau lười, nên xem ba năm chỉ như một ngày, nhanh như chớp mắt thì mới được.

  1. Phát tâm chuyên cầu ra khỏi:

Công hạnh trong ba năm này, không chỉ
chẳng mong cầu phước báo thế gian mà cũng hoàn toàn chẳng mong cầu công đức, trí tuệ, biện tài, hiểu biết. Lại chẳng mong cầu đời đời làm Tăng, hoằng truyền hưng thịnh Phật pháp. Chỉ nguyện lâm chung được vãng sinh cõi nước Cực Lạc, thoát khỏi nỗi đau khổ trong sinh tử. Nguyện này cần phải hiện diện trong từng giây phút. Như người bị lọt trong giếng khô ngàn thước, nhận được bí quyết của con chồn, nhìn chăm chú lên miệng giếng, một lòng muốn thoát ra. Người ấy cứ nhìn như thế mãi, miệng giếng chẳng lớn thêm, thân người ấy cũng chẳng nhỏ lại mà tự nhiên bay ra khỏi. Niệm Phật cũng vậy, chuyên tâm nơi Phật một lòng cầu vãng sinh. Niệm đã chí thiết thì Phật thật ra chẳng đến, ta thật ra chẳng đi mà tự nhiên được vãng sinh.

Được một nguyện này thì thấy Phật nghe pháp, đoạn trừ mê hoặc chứng quả, không nhờ phương tiện, tự nhiên tâm được khai ngộ. Trăm ngàn Tam-muội lập tức hiện tiền, số đại nguyện nhiều như vi trần chẳng thể nói được đồng thời đầy đủ. Điều quý trọng ở đây là tin chắc, ra sức thực hành, chỉ có một bề chuyên nhất mới có được thành công.

  1. Phát tâm hòa thuận giữ quy ước:

Trong phòng Tăng đã không nhiều chúng, cùng ở với nhau sớm tối, gọi là thiện tri thức đồng hạnh. Mỗi người nên phòng hộ thân và miệng, khiêm cung hòa thuận mài dũa lẫn nhau, làm khuôn mẫu cho nhau.

Trong ba năm này xem như bế quan cấm túc, nên lấy sơn môn làm ranh giới, không được đi ra ngoài. Dù họ hàng bạn bè có sự cố bệnh hoặc chết cũng không được phá lệ mà ra ngoài, mở lối cho người khác bắt chước theo, càng không được tự tiện lười biếng thiếu vắng trong thời khóa hằng ngày. Chỉ trừ lúc bệnh hoạn không thể ăn uống, nhưng hoặc ngồi hoặc nằm cũng phải thầm niệm Phật. Bởi vì trong khi bệnh hoạn phải càng nên cấp thiết.

Ngoài thời khóa hằng ngày, có dư thời
giờ phải tự kiểm điểm đừng buông bỏ thân tâm qua suông. Không được bàn nói phù phiếm, buông lung đùa giỡn làm lầm lỡ chính mình lại gây trở ngại cho người khác.

Không được xem sách bên ngoài, ngâm vịnh thơ kệ, chẳng những hoang phí thời gian mà còn cô phụ đàn na tín thí.

Trong Tăng đường thay phiên nhau một người làm giám trực, năm ngày đổi một lần, mang thẻ bài bàn giao. Có người không giữ quy ước, không đúng Pháp thì thầy giám trực nên khuyên ngăn ngay.

Người được khuyên ngăn lần đầu nghe theo thời tốt, nếu khuyên ngăn ba lần mà không nghe thì bạch chúng xử phạt. Nếu thầy giám trực thuận theo tình che giấu, không can ngăn, chẳng nêu lên thì tùy theo việc mà lượng xét trách phạt. Nếu các thầy tự nghiêm, tự trọng, ai nấy đều tinh tấn chẳng buông lung thì quy ước trở thành vô dụng, được vậy thì rất tốt.

Hãy cố gắng lên!

Hãy cố gắng lên!

Khai thị hội niệm Phật bảy ngày

Bảy ngày trì danh, quý ở chỗ nhất tâm không loạn, không gián đoạn, không xen tạp. Không phải niệm mau niệm nhiều là hay, chỉ cần không chậm không gấp, thầm thầm trì danh, khiến cho câu Phật hiệu rõ ràng, rành rẽ nơi tâm. Khi đi đứng nằm ngồi, ăn cơm mặc áo, nên giữ câu hồng danh liên tục chẳng dứt, dường như hơi thở. Đã không tán loạn cũng chẳng hôn trầm, trì danh như thế gọi là“nhất tâm tinh tấn về phần Sự”.

Nếu là người học đạo chân chính, liền hay thể cứu xét thể hội “vạn pháp đều như, không có hai tướng”, gọi là:

* Chúng sinh cùng Phật không hai.

* Mình và người không hai. Mình và người không hai nên y báo chánh báo không hai.

* Nhơ và sạch không hai.

* Khổ và vui không hai.

* Ưa và chán không hai.

* Lấy và bỏ không hai.

* Bồ-đề và phiền não không hai.

* Sinh tử và Niết-bàn không hai.

Các pháp đối đãi ấy đều đồng một tướng, đều đồng một thể thanh tịnh. Không cần miễn cưỡng an bày, chỉ nên tự cứu xét đúng lẽ thật. Cứu xét đến chỗ cùng cực bỗng nhiên khế hợp với bản tâm chính mình. Chừng đó mới biết, mặc áo ăn cơm đều là Tam-muội, cười đùa giận mắng toàn là Phật sự. Khi ấy, nhất tâm hay loạn tâm rốt cuộc trở thành lời luận bàn vô ích. Ngày đêm hai mươi bốn giờ tìm một mảy tướng khác cũng không thể được. Tuy chí tâm xưng niệm mà cũng đồng với buông miệng trách mắng. Tuy tinh tấn tu trì mà cũng là sự khổ hạnh trong mộng. Thấu rõ như thế mới là người học đạo chân chánh. Trì danh như thế gọi là “nhất tâm tinh tấn về phần Lý”.

Nhất tâm về phần Sự dường như khó mà dễ.

Nhất tâm về phần Lý dường như dễ mà khó.

Chỉ nhất tâm được phần Sự thì quyết định chắc được vãng sinh. Nếu kiêm thêm phần Lý nhất tâm, tất có thể lên ngôi Thượng phẩm. Nhưng hai thứ nhất tâm đây đều là việc mà kẻ phàm phu có thể làm được, hễ người có tâm đều có thể tu học được.
Khuyên khắp các hàng đạo, tục trong Liên Xã, nhất thiết đừng suy tôn cảnh Thánh cao vời mà cam chịu làm kẻ thấp hèn.
Mỗi người đều phải sách tấn thân tâm, gần thì trong bảy ngày, xa thì cả một đời.

Nếu tin như thế, thường tu như thế, dù không chứng quả cũng mạnh nhân sen, ngày sau gởi chất liên trì ắt không thuộc phẩm Trung, Hạ. Nếu như sau bảy ngày rồi lại phó mặc, không cố gắng dụng công niệm Phật thì phiền não vẫn y nguyên như cũ, khó mà điều phục, rốt ráo không thể đạt đến chỗ thuần thục, vô minh nghiệp tập sẽ dẫn dắt buộc ràng.

Chỉ mong muốn lập công trong bảy ngày, mà trong bảy ngày chưa từng đến chỗ nhất tâm không loạn, thật đúng là ít thiện căn, phước đức, nhân duyên làm sao hy vọng vãng sinh Cực Lạc? Khiến cho lời chân thật từ kim khẩu của đức Phật lại bị nghi ngờ là lừa dối. Đó là lỗi của ai? Chúng ta đều là những người trong bảy chúng thanh tịnh[1], mong ai nấy đều tự xét nghĩ mà răn chừa và cố gắng!

[1] Bảy chúng: gồm năm chúng xuất gia và hai chúng tại gia. Năm chúng xuất gia: Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, Thức-xoa-ma-na, Sa-di, Sa-di-ni; hai chúng tại gia: Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di.

Chọn lựa pháp môn

Thế Tôn ở trong vô lượng pháp môn, đặc biệt chỉ dạy phương tiện thù thắng kỳ lạ, đó là niệm Phật cầu sinh Tịnh độ.
Song, một pháp niệm Phật vẫn có nhiều môn, nói gọn không ngoài bốn loại:

1. Niệm Thật tướng Phật: tức là lý tánh bản giác, như kinh Đại Tập đã nói rõ.

2. Niệm pháp môn của Phật: tức là nhiều loại Tam-muội, như các kinh Đại thừa đã nói rõ.

3. Niệm tướng hảo của Phật: tức là thân tướng thắng và liệt, như kinh Quán Vô Lượng Thọ đã nói rõ.

Ba cách niệm Phật này tuy là thù thắng nhưng chẳng phải là phương tiện kỳ lạ. Bởi vì cần phải thấu suốt Sự Lý, đạt sâu cảnh Quán; ở hàng thượng trí còn khó làm được, nơi kẻ độn căn thì tuyệt phần.

4. Niệm danh hiệu Phật: tức là nhất tâm trì danh, như tiểu bản kinh Di-đà đã nói rõ. Chỉ một môn này nhờ nguyện lực thù thắng của đức Phật, bất luận là có trí, không trí, căn cơ thượng trung hạ, chỉ chấp trì danh hiệu nhất tâm không loạn trong bảy ngày, thậm chí một ngày, tức là nhiều thiện căn phước đức nhân duyên, liền được Phật A-di-đà và Thánh chúng tiếp dẫn và được tất cả chư Phật trong mười phương hộ niệm.

Đức Phật ấy vốn có thệ nguyện: “Nếu có chúng sinh muốn sinh về cõi nước tôi, hết lòng tin tưởng mến thích, chí tâm xưng niệm cho đến mười niệm, nếu không được vãng sinh tôi nguyện không thành Chánh Giác”.

Đó là phương tiện kỳ lạ chẳng thể nghĩ bàn. Chỉ vì kỳ lạ cho nên thù thắng.

Tịnh độ cũng có bốn loại:

1. Cõi Thường Tịch Quang: nơi cư trú của bậc Thánh nhân đạt đến quả vị cùng tột, đoạn trừ hết Vô minh hoặc[1] mới được sinh về đây.

2. Cõi Thật Báo Vô Chướng Ngại: Nơi cư trú của hàng Bồ-tát địa trụ Biệt giáo, Viên giáo trở lên, đoạn trừ Trần sa hoặc[2] mới được sinh về nơi đây.

3. Cõi Phương Tiện Hữu Dư: nơi cư trú
của hàng Thánh nhân Tứ quả[3], Bồ-tát Tam hiền Biệt giáo và Bồ-tát Thập tín Viên giáo, đoạn trừ Kiến Tư hoặc[4] mới được sinh về nơi đây.

Ba loại Tịnh độ này tuy là thù thắng nhưng chẳng phải phương tiện kỳ lạ. Bởi vì cần phải đoạn trừ vọng hoặc mới được sinh về; thì đồng với sự vượt khỏi ba cõi theo chiều dọc.

4. Cõi Phàm Thánh Đồng Cư: nơi hàng Thánh hiền Quyền thật và phàm phu ở chung. Chỉ có Tịnh độ này nhờ sức mạnh nhiếp thọ của chư Phật nên chẳng cần đoạn trừ vọng hoặc, còn mang nghiệp mà được vãng sinh.

Chỉ cần tín, nguyện dẫn đường phía trước, đạo cảm ứng qua lại, nghiệp chướng nhẹ lần mà thoát khỏi nỗi khổ luân hồi. Lại ở ngay nơi cõi Đồng Cư An Dưỡng này tiện lợi tiến thẳng đến cõi Phương tiện Thật Báo và Tịch Quang. Thế nên, người trí thì có thể nhanh chóng đạt đến chỗ thanh tịnh bốn cõi, mà kẻ ngu cũng có thể vượt khỏi ba cõi theo chiều ngang, không phiền tu cửu thứ đệ định[5], chẳng đợi qua ba A-tăng-kỳ[6] mới chứng quả.

Đó là phương tiện kỳ lạ chẳng thể nghĩ bàn, chỉ vì kỳ lạ nên thù thắng.

Pháp môn tối thắng đặc biệt kỳ lạ như vầy, từ nơi Ấn Độ xa xăm, đức Phật Thích-ca đã ân cần khuyên dạy. Các đức Như Lai nhiều như cát sông Hằng, đều hiện tướng lưỡi rộng dài khen ngợi ở khắp cõi nước mười phương, lẽ nào lại lừa dối ta sao?

Luận Tỳ-bà-sa[7] của Ngài Long Thọ nói: “Phật pháp có vô lượng môn, như những con đường ở thế gian có khó có dễ, đi bộ thì khó ngồi thuyền bè thì dễ. Muốn dễ đi mau đến phải nên niệm Phật, phải nên xưng danh hiệu Phật A-di-đà thì mau được đạo giác ngộ Chân Chánh Vô Thượng”.

Luận Thập Nghi[8] của Đại sư Trí Giả nói: “Ở đời ngũ trược[9] cầu quả vị không thối chuyển rất khó được, ví như người què đi bộ một ngày không quá mấy dặm. Nếu tin Niệm Phật Tam-muội nương nguyện lực của đức Phật ấy nhiếp trì, chắc chắn được vãng sinh, như ngồi thuyền gặp gió xuôi, chỉ trong khoảnh khắc vượt xa ngàn dặm. Lại như kẻ thấp hèn theo vua Chuyển Luân[10] một ngày một đêm đi khắp tứ thiên hạ. Đó chẳng phải do tự lực mà bởi sức mạnh của vua Chuyển Luân, giống như đi xe ở thế gian”.

Người tu Thiền trực chỉ phần nhiều đả kích Tây Phương, nói rằng pháp môn này chuyên thâu nhiếp kẻ độn căn thấp kém. Nếu có thể một nhảy vào thẳng địa vị Phật thì đâu nhờ tha lực. Họ chẳng xét Bồ-tát Văn-thù, Phổ Hiền, Mã Minh, Long Thọ cùng Thiền sư Trí Giả, Trí Giác ở cõi này đều phát nguyện vãng sinh. Vậy các Ngài đều thuộc về độn căn hay sao?

Thế Tôn ở trên hội Bảo Tích khuyên phụ vương Tịnh Phạn và sáu vạn người dòng họ Thích nguyện sinh về Tịnh độ. Vậy họ đều là hạng thấp kém hay sao?

Pháp môn Tịnh độ này chẳng nhờ phương tiện, mà tự được khai ngộ tâm tánh. Sao lại có con đường tắt đến thế! Vừa mới sinh vào thai sen liền bước lên địa vị Bất thối[11]. Tại sao lại cho là việc nhỏ nhặt?

Đến như bậc đã ngộ tâm tông như ngài Quy Sơn mà còn nói trong Văn Cảnh Sách: “Đời đời nếu không lui sụt, thì có thể thành tựu quả vị Phật”. Sự khó dễ, mau chậm rõ ràng, có thể biết được.

Vậy mà người học ở thế gian hoặc nghi ngờ, chê bai, xem thường hoặc chẳng ưa nói đến pháp môn Tịnh độ. Những người như thế thật quá sai lầm!

[1] Vô minh hoặc: cội gốc mê lầm che lấp thể tánh chân thật, là căn bản của tất cả phiền não. Vô minh hoặc này chỉ có hàng Bồ-tát mới biết rõ và đoạn hết, nên còn gọi là Biệt hoặc.

[2] Trần sa hoặc: lấy bụi cát để ví dụ cho sự mê lầm trong tâm của phàm phu nhiều vô số. Cho nên Bồ-tát phải học các pháp Phật nhiều như số cát sông Hằng mới phá trừ được những mê lầm (hoặc) này.

[3] Tứ quả: bốn quả vị mà hàng Thanh-văn thuộc Tiểu thừa chứng được. Giai đoạn theo thứ lớp là: 1. Quả Dự Lưu; 2. Nhất Lai; 3. Bất Hoàn và 4. A-la-hán.

[4] Kiến tư hoặc: gồn Kiến hoặc và Tư hoặc. Những sự thấy biết và nhận thức một cách sai lầm, trái với chánh pháp gọi là Kiến hoặc, các điều suy tư, phán đoán, quyết định sai lầm chẳng đúng với chánh pháp thì gọi là Tư hoặc.

[5] Cửu thứ đệ định: Tứ thiền, Tứ vô sắc định và Diệt tận định. Chín loại Thiền định chẳng xen tạp tâm khác vào, lần lượt theo thứ tự từ một định vào một định.

[6] A-tăng-kỳ: một đơn vị số lượng của Ấn Độ, là số cực lớn chẳng thể tính đếm được. Theo cách tính thì một A-tăng-kỳ có một nghìn vạn vạn vạn… triệu.

[7] Luận tỳ-bà-sa: gồm 14 quyển, do ngài Thi-đà-bàn-ni soạn, ngài Tăng-già-bạt-trừng dịch vào đời Phù Tần, được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập 28. Nội dung luận này giải thích rộng pháp tướng của Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ.

[8] Luận Thập Nghi: một quyển, soạn vào đời Tùy, được xếp vào Đại Chánh Tạng, tập 47.

Nội dung tác phẩm y cứ vào pháp môn vãng sinh Tịnh độ A-di-đà mà nêu ra mười câu hỏi, sau đó theo thứ tự giải đáp.

[9] Ngũ trược: năm thứ cặn đục khởi lên trong Kiếp giảm.

Theo thuyết của kinh Bi Hoa 5, Pháp Uyển Châu Lâm 98, ngũ trược chỉ cho:

1. Kiếp trược (Kalpakasaya): vào thời kiếp giảm, lúc tuổi thọ con người rút ngắn còn 30 tuổi thì nạn đói kém xảy ra, lúc giảm còn 20 tuổi thì nạn bệnh tật xảy ra, lúc giảm còn 10 tuổi thì nạn chiến tranh xảy ra, tất cả chúng sinh trong thế giới đều bị hại.

2. Kiến trược (Drstikasaya): chánh pháp đã diệt, tượng pháp dần dần khởi, tà pháp bắt đầu sinh, tà kiến tăng mạnh, làm cho con người không tu tập pháp lành.

3. Phiền não trược (Klesakasaya): chúng sinh nhiều ái dục, tham lam bỏn sẻn, thích đấu tranh dua nịnh, dối trá, tiếp nhận tà pháp, nên tâm thần bị não loạn.

4. Chúng sinh trược (Sattvakasaya, còn gọi Hữu tình trược): chúng sinh phần nhiều độc ác, không hiếu kính cha mẹ, người lớn tuổi, không sợ quả báo ác, không tạo công đức, không tu huệ thí, không giữ gìn trai giới.

5. Mạng trược (Ayakasaya, còn gọi Thọ trược): thời xưa con người thọ tám vạn tuổi, đời nay do ác nghiệp tăng trưởng nên tuổi thọ giảm dần, người trăm tuổi rất hiếm.

[10] Vua Chuyển Luân: vị vua làm cho chánh pháp ngự trị ở thế gian, cai trị bốn châu chung quanh núi Tu-di. Cõi nước vị vua này trị vì giàu đẹp, nhân dân an lạc. Vua đi xe báu và có đầy đủ bảy báu: xe, voi, ngựa, minh châu, ngọc nữ, cư sĩ, binh đội và bốn đức: sống lâu, không bệnh tật, dung mạo đẹp đẽ và kho báu dồi dào.

[11] Bất thối: không thối chuyển, chỉ sự tu hành không lui sụt cho đến khi thành Phật.

Trình bày sơ lược về chín phẩm

Một môn Tịnh độ, tuy thu nhiếp rộng rãi mọi căn cơ, đều lên địa vị Bất thối. Nhưng việc thấy Phật mau hay chậm, nghe pháp Đại thừa hoặc Tiểu thừa, chứng quả thọ ký sớm hay muộn, thật cách xa như trời với vực.
Kinh Vô Lượng Thọ chia làm ba hạng, chẳng bằng kinh Quán Vô Lượng Thọ chia làm chín phẩm rất tường tận. Nói chung:

* Thượng phẩm lấy giải ngộ làm căn bản.

* Trung phẩm lấy việc giữ giới và làm lành làm căn bản.

* Hạ phẩm thuần ác, không thiện, chỉ lúc lâm chung gặp bạn lành, một niệm phát sinh lòng tin, tiêu diệt lỗi lầm mà được vãng sinh.

Nay xin phân tích rõ ràng:

1. Thượng phẩm Thượng sinh:

Người đọc tụng kinh điển Đại thừa, thông suốt Tông (tâm tánh) và Thuyết (giáo lý), tu hành lục niệm[1], sự hiểu biết và thực hành phù hợp nhau cho nên trong khoảng thời gian khảy móng tay liền vãng sinh, thấy Phật nghe pháp, tỏ ngộ lý Vô sinh nhẫn[2], trong khoảnh khắc trải qua phụng sự chư Phật khắp mười phương, tự thân được thọ ký.

Về Tăng sĩ như các ngài Huệ Viễn, Trí Giả… về người thế tục như các ông Lưu Di Dân, Dương Vô Vi[3] đáng được dự vào phẩm này.

2. Thượng phẩm Trung sinh:

Người tuy chưa đọc tụng kinh điển Đại thừa mà có thể hiểu Đệ nhất nghĩa[4]. Do đó, bản thân cũng có ngộ nhập nhưng sự thực hành và quả chứng chưa bằng Thượng phẩm Thượng sinh. Cho nên, trải qua một đêm hoa nở thấy Phật, do vì sự huân tập của đời trước, nên nghe khắp cả các âm thanh đều thuyết Đệ nhất nghĩa đế sâu thẳm.

Qua bảy ngày thì được không thối chuyển đối với đạo giác ngộ chân chánh vô thượng. Sau đó, tu các môn chánh định Tam-muội, trải qua một tiểu kiếp[5] được chứng ngộ lý không sinh không diệt (vô sinh nhẫn).

3. Thượng phẩm Hạ sinh:

Người tuy chưa có sự ngộ nhập nhưng cũng phát tâm đạo vô thượng, tự mình muốn thấy rõ bản tánh, cuối cùng chưa toại chí, do đó cầu vãng sinh.

Trải qua bảy ngày thì thấy Phật, đến hai mươi mốt ngày mới nghe diệu pháp. Trải qua ba tiểu kiếp bước vào Hoan hỷ địa[6].

4. Trung phẩm Thượng sinh:

Người nam, người nữ tại gia có lòng tin thanh tịnh, trì giới cầu vãng sinh Tây Phương, lúc lâm chung thấy Phật được vãng sinh. Hoa sen liền nở, nghe thuyết giảng về pháp Tứ đế[7], tức khắc được đạo quả A-la-hán[8].

Do sức mạnh của việc giữ giới tinh chuyên nên hoa nở chứng quả rất mau. Vì chưa phát tâm đạo vô thượng nên chỉ nghe pháp Tứ đế, chứng được quả vị nhỏ mà thôi.

5. Trung phẩm Trung sinh:

Người nam nữ xuất gia trì giới cầu vãng sinh, một ngày một đêm giữ giới Sa-di, giới Tỷ-kheo. Vì hiển bày sự thù thắng của giới pháp nên tuy ở trong thời gian rất ngắn mà được vãng sinh, huống là trì giới lâu dài.

Song, người xuất gia giới hạnh tinh chuyên vẫn sinh về Trung phẩm Thượng sinh. Người tại gia tạm thời trì trai giới trong thời gian ngắn cũng sinh về Trung phẩm Trung sinh, có thể thông lẫn nhau.

Khi lâm chung, thấy Phật được vãng sinh. Trải qua bảy ngày hoa nở, thấy Phật nghe pháp, được quả Tu-đà-hoàn[9], sau đó trải qua nửa kiếp thì chứng quả A-la-hán.

6. Trung phẩm Hạ sinh:

Cũng là người nam nữ thế tục, thường ngày chưa quy hướng Tam Bảo nhưng có lòng nhân từ hiếu thảo, tiến bước trên đường đạo đức. Lúc sắp lâm chung, gặp thiện tri thức khai thị, liền được vãng sinh.

Sau bảy ngày, thấy hai vị Đại Bồ-tát Quán Âm và Thế Chí, người ấy nghe pháp được quả Tu-đà-hoàn, trải qua mười tiểu kiếp thành bậc A-la-hán.

7. Hạ phẩm Thượng sinh:

Người ác ở thế tục, lúc sắp lâm chung gặp thiện tri thức dạy xưng danh hiệu Phật, tiêu diệt tội lỗi, được vãng sinh.

Sau bảy ngày hoa nở, thấy hai vị Đại sĩ người ấy nghe thuyết giảng mười hai bộ kinh[10] thâm sâu, phát tâm đạo vô thượng, trải qua mười tiểu kiếp được vào Sơ địa.

8. Hạ phẩm Trung sinh:

Người ác xuất gia phá giới, lúc lâm chung gặp thiện tri thức khen ngợi Phật, thuyết pháp cho nghe chỉ trong một niệm được vãng sinh.

Trải qua sáu kiếp, hoa nở thấy hai vị Đại sĩ, người ấy nghe kinh điển thâm sâu về Đại thừa, phát tâm đạo vô thượng.

9. Hạ phẩm Hạ sinh:

Hạng người cực ác, gồm cả Tăng và tục tạo năm tội nghịch[11] và mười nghiệp ác[12]. Lúc sắp lâm chung, gặp thiện tri thức dạy xưng danh hiệu Phật, đầy đủ mười niệm được vãng sinh. Trải qua mười hai kiếp hoa nở, nghe hai vị Đại sĩ nói về Thật tướng của các pháp, liền phát tâm Bồ-đề.

Hai phẩm sau chưa nói số thời gian bước vào Sơ địa, cũng như Hạ phẩm Thượng sinh, sau mười tiểu kiếp mới phát tâm đạo vô thượng.

Ba phẩm Trung tuy lấy việc giữ giới làm lành cầu vãng sinh, tâm độ mình kiên cố nhưng hạnh độ người khiếm khuyết, nên rốt cuộc được Đại thừa mà phải tạm lên quả vị nhỏ.

Ba phẩm Hạ tuy là phàm phu cực ác, do nghe hai vị Đại sĩ thuyết pháp thâm sâu nên liền có thể phát tâm vô thượng. Tuy trải qua nhiều kiếp nhưng vào thẳng địa vị Thánh.

Thế thì một niệm rộng lớn hay nhỏ hẹp, chóng vượt quả vị nhỏ của Quyền thừa, một đời tinh tấn vượt xa nhiều kiếp. Thời gian mau chậm, thai sen lớn nhỏ, người phát tâm cố gắng tu hành nên xét kỹ điều mà mình đang thực hiện.

Người sau khi ngộ cầu vãng sinh, mượn cảnh duyên Cực Lạc dễ đoạn phiền não, tập khí, dễ tu Tam-muội, mau thành tựu sức an nhẫn để cứu độ các chúng sinh. Người chưa ngộ cầu vãng sinh vì thân cận Phật Di-đà nên dễ dàng thấy tánh, ngài Vĩnh Minh bảo rằng: “Chỉ thấy Phật Di-đà, lo gì chẳng được khai ngộ”, chính là ý này.

Hai môn Thiền Tịnh, mỗi môn nên chuyên hành trì không cần kiêm tu. Chỉ là, nếu có tướng kia đây thì chẳng phải thấu suốt ý chỉ của Phật. Người tham thiền chẳng luận ngộ cùng chưa ngộ, khi được vãng sinh đều lên Thượng phẩm. Người tu Tịnh tuy phạm năm tội nghịch, mười nghiệp ác mà biết sám hối còn được dự vào Hạ phẩm Hạ sinh, nhưng phải không phỉ báng Đại thừa. Vậy thì người phỉ báng chẳng được vãng sinh, nên biết điều ấy.

Người trước ngộ, sau nguyện vãng sinh như buồm lớn gặp gió xuôi. Người niệm Phật mà chê bai Thiền, như lấy hạt giống hư đem trồng nơi đất tốt. Tướng trạng hơn kém, sự quan hệ của được và mất cần phải phân biệt rõ.

[1] Lục niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Bố thí, niệm Thiên. Theo kinh Niết-bàn, chữ Thiên có ba hạng:

1. Sinh thiên, chư Thiên trong ba cõi.

2. Tịnh thiên, tất cả các bậc Hiền thánh trong ba thừa.

3. Đệ nhất nghĩa thiên chính là Niết-bàn.

[2] Vô sinh nhẫn: pháp nhẫn vô sinh, tức quán lý không sinh không diệt của các pháp, nhận kỹ lý ấy, an trụ tâm bất động.

[3] Dương Vô Vi: người đời Tống, ở châu Vô Vi, hiệu là Vô Vi Tử. Thời thiếu niên thi đỗ được làm quan Thượng Thư Chủ Khách Lang, Đề Điểm Lưỡng Chiết Hình Ngục. Ông tôn sùng Phật pháp, tỏ ngộ Thiền tông, bảo rằng: “Căn cơ của chúng sinh có bén nhạy và chậm lụt, dễ hiểu dễ tu, chỉ có pháp môn Tịnh độ”. Ông từng viết lời tựa cho quyển Tịnh Độ Thập Nghi Luận và Tịnh Độ Quyết Nghi Tập, xiển dương pháp môn niệm Phật. Lúc về già, ông vẽ hình Phật A-di-đà cao một trượng sáu, thường mang theo bên mình để cúng dường, cảm đức Phật A-di-đà đến tiếp dẫn, ngồi ngay thẳng mà qua đời.

[4] Đệ nhất nghĩa: lẽ thật cùng tột hơn hết nên gọi bậc nhất. Đây là chỗ tự giác của trí huệ bậc Thánh, cảnh giới dứt bặt mọi đối đãi, rời ngôn ngữ, dứt tuyệt mọi sự nghĩ ngợi suy tư.

[5] Tiểu kiếp: thời gian rất lâu dài. Kinh Bồ-tát Anh Lạc Bản Nghiệp nói: “Như có một khối đá vuông vức bốn mươi dặm, mỗi ba năm một lần có một vị Thiên nhân Trường Thọ bay đến dùng áo trời rất mỏng phủi lên tảng đá ấy, cho đến khi nó mòn hết thì đó gọi là một tiểu kiếp”.

[6] Hoan hỷ địa: còn gọi là Sơ địa, là bậc đầu tiên trong mười địa vị (Thập địa). Vì mới chứng nhập tánh bình đẳng, vừa được giác ngộ nên rất vui vẻ, do vậy gọi là hoan hỷ.

[7] Tứ đế: bốn chân lý khổ, nguyên nhân của khổ, cảnh giới chấm dứt khổ và con đường dẫn đến cảnh giới ấy.

[8] A-la-hán: bậc Thánh đã đoạn hết Kiến hoặc, Tư hoặc trong ba cõi, chứng được Tận trí, xứng đáng nhận tất cả sự cúng dường của thế gian; là một trong bốn quả Thanh văn. Có ba nghĩa: Sát tặc, Ứng cúng và Bất sinh.

[9] Tu-đà-hoàn: Quả đầu tiên trong bốn quả Thánh của Thanh văn thừa.

[10] Mười hai bộ kinh: mười hai thể loại kinh được phân biệt theo hình thức trình bày và nội dung giáo pháp.

1. Khế kinh (Tu-đa-la): trường hàng, tức thể loại văn xuôi, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của Phật.

2. Ứng tụng (Kỳ-dạ): trùng tụng, tức phần kệ tụng giải thích lại giáo thuyết mà khế kinh đã nói.

3. Ký biệt (Hòa-già-la-na): còn gọi Thụ ký, vốn là các đoạn văn giải thích về giáo nghĩa, đời sau đặc biệt chỉ cho lời ấn chứng trước của Phật đối với việc làm ở vị lai của các đệ tử.

4. Phúng tụng (Già-đà): còn gọi Cô khởi, tức là phần kệ tụng độc lập, trực tiếp ghi chép giáo thuyết của đức Phật mà không lặp lại ý của văn trường hàng trước đó.

5. Tự thuyết (Ưu-đà-na): đức Phật không đợi có người hỏi pháp mà tự khai thị giáo thuyết.

6. Nhân duyên (Ni-đà-na): ghi chép nhân duyên thuyết pháp giáo hóa của Phật, như phẩm Tự của các kinh.

7. Thí dụ (A-bà-đà-na): dùng thí dụ để giảng nói pháp nghĩa.

8. Bản sự (Y-đế-viết-đa-già): các bản kinh nói về hành nghi ở đời quá khứ của Phật và đệ tử, ngoài Bản sinh đàm, hoặc những kinh mở đầu bằng câu: “Phật như thị thuyết” cũng thuộc loại bản sự.

9. Bản sinh (Xà-đà-già): thể loại kinh nói về các hạnh mà đức Phật tu hành vào thời quá khứ.

10. Phương quảng (Tỳ-phật-lược): các kinh giảng nói giáo nghĩa rộng lớn sâu xa.

11. Hy pháp (A-phù-đà-đạt-ma): còn gọi Vị tằng hữu pháp, nói về những việc ít có của Phật và các đệ tử.

12. Luận nghị (Ưu-ba-đề-xá): đức Phật luận nghị phân biệt thể tánh các pháp, làm sáng tỏ ý nghĩa.

Mười hai thể loại này Đại thừa, Tiểu thừa đều có. Nhưng có kinh cho rằng Phương quảng chỉ Đại thừa mới có, hoặc cho rằng ngoài Ký biệt, Tự thuyết và Phương quảng thì chín bộ còn lại đều thuộc về Tiểu thừa; có thuyết lại cho rằng ngoài Nhân duyên, Thí dụ và Luận nghị thì chín bộ còn lại đều thuộc về Đại thừa. Có người nói chín thể loại kinh không có Thí dụ, Bản sinh và Luận nghị, hoặc không có Tự thuyết, Thí dụ và Luận nghị.

[11] Năm tội nghịch: còn gọi Ngũ nghịch tội. Năm tội cực ác trái với đạo lý. Theo thuyết của Tiểu thừa, năm tội nghịch là: 1. Giết mẹ (Matrghata); 2. Giết cha (Pitrghata); 3. Giết A-la-hán (Arhadghata); 4. Làm thân Phật ra máu (Tathagatasyantike dustacitta durhirotpadana) và 5. Phá hòa hợp tăng (samghabhada). Hai tội trước là phá ân điền (bỏ ruộng ân nghĩa), ba tội sau là hủy đức điền (hư hao ruộng đức). Người phạm vào năm tội này sẽ bị đọa vào địa ngục Ngũ vô gián.

[12] Mười nghiệp ác: Sát sinh, Trộm cắp, Tà dâm, Vọng ngữ, Lưỡng thiệt ( nói lời gây ly gián, lời phá hoại), Ác khẩu (nói lời thô ác), Ỷ ngữ (là lời nói vô nghĩa, lời nói do tâm nhiễm phát ra), Tham dục (tham ái, tham thủ, xan tham), Sân khuể, Tà kiến (tức ngu si).