Tịnh độ chỉ quyết – Thích Minh Thành

tịnh độ chí quyết

THIỀN SƯ ĐẠO BÁI

(1615-1702)

Thiền sư Đạo Bái, người đời Thanh, họ Đinh, tự Vi Lâm, hiệu Lữ Bạc, Phi Gia Tẩu. Quê ở Kiến An (nay là huyện Kiến Âu, tỉnh Phúc Kiến) Trung Quốc. Năm 14 tuổi vào chùa Bạch Vân, năm sau thì xuống tóc. Một hôm, thấy vị Tăng ở phòng bên cạnh chết, Sư tỏ ngộ đạo lý vô thường, bèn phát khởi ý chí rộng lớn, đi khắp mọi nơi học đạo.

Năm 18 tuổi, được ngài Văn Cốc dạy “niệm Phật cuối cùng sẽ thành Phật”, Sư tin sâu không nghi ngờ. Về sau, Sư theo học với Thiền sư Nguyên Hiền ở Cổ Sơn bốn năm. Sau đó, Sư đi khắp các giảng đường ở Hàng Châu trong 5 năm, am tường được yếu chỉ của các kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Duy Ma, Hoa Nghiêm, kinh Viên Giác, Luận Khởi Tín, Duy Thức, và giáo lý tông Thiên Thai. Trở về đất Mân dựng am ở lại trên núi Đại Bách Trượng, độ mẹ xuất gia và cùng tu Tịnh nghiệp với mẹ trong 5 năm. Năm thứ mười niên hiệu Thuận Trị (1653), nhập thất ba năm ở am Quảng Phước tại Kiến Ninh. Tháng 10 năm thứ 14 niên hiệu Thuận Trị (1657), Thiền sư Nguyên Hiền thị tịch. Sư kế nhiệm trụ trì, mở pháp đường thuyết pháp hơn mười năm.

Tháng 4 năm thứ 23 (1684) Khang Hy, Sư hoàn thành “Hoa Nghiêm Sớ Luận Toản Yếu”–120 quyển. Năm thứ 26 Khang Hy (1687), Sư biên tập “Thiền Hải Thập Trân”–1 quyển. Năm thứ 34 Khang Hy (1769), trước tác “Pháp Hoa Kinh Văn Cú Toảûn Yếu”–7 quyển. Ngoài những tác phẩm trên, Sư còn trước tác rất nhiều bộ kinh khác, riêng về Tịnh Độ có các quyển: “Tịnh Độ Chỉ Quyết”, “Tịnh Nghiệp Thường Khóa”, “Tục Tịnh Độ Sinh–Vô Sinh Luận”, “Phát Nguyện Văn Chú”. Năm thứ 41 Khang Hy (1702), Sư thị tịch, hưởng thọ 88 tuổi.

Ngài Đạo Bái tiếp nhận sự khai thị của Thiền sư Nguyên Hiền, tỏ ngộ ý chỉ của Tổ sư từ Ấn Độ sang, chú trọng và phát huy sự tự ngộ. Ngài nói: “Phật không phải là Phật hình tướng bên ngoài, mà chính là tánh biết vốn có sẵn nơi mỗi người”. Ngài còn nói: “Ngàn kinh muôn luận đều phá trừ chấp thân và chấp tâm. Hai chấp đã được phá trừ thì tánh Phật tự hiện. Chấp thân không còn thì huyễn thân, tức là Pháp thân. Chấp tâm không còn thì huyễn tâm chính là tánh Phật”. Ngài cũng đề xướng dung thông Thiền–Giáo, Nho–Thích và nói phải từ lòng tin mà vào Phật pháp: “Tin, một là tin lời Phật; hai là tin tâm mình”.

“…Hiện nay có những người không tin lời Phật, nhưng thật ra chẳng phải là không tin lời Phật, mà chính là chẳng tin tâm mình”.

TỰA

Pháp môn phương tiện của Phật, Tổ rất nhiều, nhưng muốn tìm pháp thẳng tắt, giản dị, rộng lớn và tinh vi, thì không gì bằng pháp môn Tịnh độ. Người xưa bảo: “Trong biển sinh tử, niệm Phật bậc nhất”, thật không phải lời nói giả dối!

Trong Kinh A Di Đà, chính đức Như Lai tuyên thuyết, chư Phật sáu phương cùng chung khen ngợi. Các Kinh Luận Đại thừa cũng đều khuyến tấn nhiều lần. Đến như các bậc Tông sư: Thiên Thai, Nam Nhạc, Trường Lô, Vĩnh Minh, Từ Thọ, Trung Phong… đều cực lực tán dương pháp môn niệm Phật.

Bởi vì, pháp môn này về mặt lợi mình thì có thể thành tựu trong một đời; về mặt lợi người thì đều có thể thâu nhiếp cả ba căn cơ; còn xét đến chỗ trở về thì phù hợp với ý chỉ của Thiền tông. Bảo rằng: “Thiền là Thiền của Tịnh độ, Tịnh độ là Tịnh độ của Thiền”, thật là xác đáng!

Thời nay, Phật pháp dần suy, bậc chân tu hiếm thấy. Người tham thiền được chút ít hiểu biết liền vội luận bàn việc hướng thượng cao siêu, xem thường Tịnh hạnh. Thậm chí, họ còn xem những lời phá trừ chấp trước của Tổ sư là pháp thật. Khắp nơi đều như vậy không chịu nương về.

Người hiểu biết lấy làm lo lắng, bảo rằng: “Mọi người đã tự làm mất điều lợi ích, còn gây nên lỗi lầm phỉ báng chánh pháp. Thật đáng sợ thay!”.

Đại sư Đạo Bái ở Bảo Phước, đích thân tiếp nhận pháp ấn của ngài Nguyên Hiền. Ở nơi đạo tràng hơn hai mươi năm, tông phong được truyền bá rộng rãi, mưa pháp thấm nhuần khắp xa gần, thật là biển Thiền trong một thời!

Ngoài những khi đề xướng Thiền học, Sư cực lực tán dương Tịnh độ. Sư từng nói: “Lão tăng chí nơi tông môn, hạnh ở Tịnh độ”. Lời nói này thật sâu xa!

Ngài cùng Đại sư Thiên Thai, Vĩnh Minh đều là những bậc đã tự thân tu hành pháp niệm Phật, còn đem pháp ấy giáo hóa mọi người. Các vị này đều cùng một lối đi.

Tôi trước nay đắm chìm trong thế gian, hâm mộ cửa Phật muộn màng. Mùa xuân năm Tân Dậu, có nêu lên tám câu hỏi về Tịnh độ nhờ Sư giải bày. Mùa Thu năm ấy, lại được Sư từ xa gửi đến quyển Tịnh Độ Chỉ Quyết. Trong đó, phần nhiều khai thị niệm Phật gồm những bức thư, lời hỏi–đáp, kệ tán, dẫn rộng lời Phật, Tổ để chứng minh, tạo niềm tin vững chắc cho mọi người, lời lẽ giản dị, nghĩa lý sâu xa.

Tôi kính cẩn đọc tới đọc lui, khen ngợi sách ấy thật là thiết yếu. Những người tu Thiền và Tịnh, ngay đây nếu biết quay về nhận lấy “quê xưa cảnh cũ” của chính mình, thì gọi Thiền hay gọi Tịnh đều là lời nói dư thừa. Nếu chưa được như thế, thì quyển sách này chính là thềm bậc của Tịnh bang, cũng là chiếc gương quý của biệt truyền vậy.

PHÁT NGỮ KHAI THỊ TU TỊNH NGHIỆP CHO CƯ SĨ CUNG TÍCH VIỆN

Các Kinh thảy đều khen ngợi pháp môn niệm Phật. Trong kinh A Di Đà, chư Phật sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp ba ngàn thế giới nói lên lời thành thật. Đó chính vì sợ chúng sinh không tin nổi, nên các Ngài mới làm như thế để bảo chứng cho lời nói đó không giả dối, và làm cho chúng sinh phát sinh lòng tin chắc chắn, bởi vì đây là pháp sâu rộng khó tin.

Kinh A Di Đà có nói: “Không thể dùng chút ít nhân duyên phước đức căn lành, mà được vãng sinh Tịnh độ”.

Pháp khó tin mà tin được thì biết người đó có nhiều nhân duyên, nhiều phước đức và nhiều căn lành.

Chỉ trong một môn niệm Phật mà bao gồm đầy đủ vô lượng pháp môn. Bởi vì Phật có ba thân, cõi có bốn loại. Người tu Tịnh nghiệp tùy theo sức mình mà tu hành:

 Hoặc niệm Phật Pháp Thân, nguyện sinh về cõi Thường Tịch Quang.

 Hoặc niệm Phật Báo Thân, nguyện sinh về cõi Thật báo Trang nghiêm.

 Hoặc niệm Phật Hóa Thân, nguyện sinh về hai cõi Phương Tiện Hữu Dư và Phàm Thánh Đồng Cư.

Tuy nói Phật có ba thân nhưng thật sự chỉ là một thân, nói có bốn cõi nhưng vốn chỉ là một cõi, vì đều lấy Pháp giới làm thể. Thế nên, hàng căn cơ viên đốn chỉ từ nơi một mà xuyên suốt tất cả. Như Đồng Tử Thiện Tài, ở núi Diệu Phong tham kiến vị thiện tri thức đầu tiên là Tỳ kheo Đức Vân được pháp Niệm Phật Tam Muội của ngài Phổ Hiền, đây chính là hạng người ấy.
 Niệm Phật Hóa Thân thì có Hòa thượng Đại Hạnh ở Cao Tề rất tôn sùng và chuyên tu trì theo pháp môn niệm Phật này. Ngài nói: “Tứ tự giáo chiếu”. Nghĩa là nơi tâm thường luôn “tin nhớ”, nơi miệng thường luôn “xưng kính”.

Bảo rằng vãng sinh Tịnh độ cần phải có lòng tin, ngàn người tin ngàn người được vãng sinh; muôn người tin, muôn người về Tịnh độ.

Tâm luôn tin, miệng thường niệm danh hiệu Phật, thì chư Phật liền cứu, chư Phật liền độ. Tâm thường nhớ Phật, miệng thường niệm Phật, thân thường kính Phật, như thế mới gọi tin sâu. Dù cho sớm hay muộn, nhưng sau cùng cũng không còn lý do gì ở lại Ta bà nữa. Đây chính là đứng về mặt Niệm Phật Hóa Thân, vãng sinh nơi cõi Phương Tiện và Đồng Cư. Vì vậy, nhắc nhở người mới phát tâm nên xem trọng và siêng năng thực hành.

 Niệm Phật Báo Thân thì sáu mươi vạn ức Na do tha hằng hà sa do tuần đều là thân của Phật. Vô lượng vô biên bất khả tư nghì A tăng kỳ kiếp là thọ mạng của Phật. Nước bốn biển trong ngần mắt biếc, năm Tu Di uyển chuyển bạch hào, ánh sáng không có bờ mé, quyến thuộc nhiều vô số. Người hầu cận bên trái là Bồ tát Quán Âm, bên phải là Bồ tát Thế Chí, vừa xưng danh hiệu thì diệt trừ được tội nặng của sự sinh–tử trong tám mươi ức kiếp, thoáng nhìn Thánh tượng liền được tám vạn bốn ngàn tướng hảo.

Ôi! Đã bảo rằng thân Phật to lớn sáu mươi vạn ức Na do tha hằng hà sa do tuần thì Ta bà cách Cực lạc chẳng qua chỉ mười muôn ức cõi. Nếu vậy thì ba đường đen tối, sáu nẻo luân hồi, tất cả chúng sinh trong thế giới Ta bà đều ở trong tâm của Phật A Di Đà, luôn luôn nuôi ta lớn, luôn luôn thâu nhận ta, luôn luôn phóng quang minh soi sáng ta. Không biết tại sao chúng sinh chẳng hay, chẳng tin, chẳng thấy?

Nếu người thiện nam có phước đức căn lành, thấy biết như thế, tin tưởng hướng về, phát nguyện rộng lớn, nguyện vãng sinh cõi nước ấy thì toàn thể dung thông, vừa khởi niệm liền đến ngay. Như vậy nào có xa xôi gì? Nếu có thể Niệm Phật Báo Thân được như thế, chắùc chắc sinh về cõi Thật Báo Trang Nghiêm.

Niệm Phật Pháp Thân, trong Luận Đại Thừa Khởi Tín nói:

“Như trong Kinh nói nếu người chuyên niệm Phật A Di Đà ở thế giới Cực lạc Tây phương; tu mọi căn lành để hồi hướng nguyện vãng sinh về thế giới ấy, thì chắc chắn được vãng sinh, vì thường thấy Phật nên rốt cuộc không thối chuyển. Nếu quán xét về Pháp thân Chân như của đức Phật ấy và thường siêng năng tu tập, thì nhất định được vãng sinh, trụ nơi chánh định”.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói:

“Phật A Di Đà là Thân Pháp Giới vào khắp trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Thế nên, khi tâm các ông tưởng Phật, tâm ấy tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”.

Trời đất đồng cội gốc, muôn vật cùng một thể. Pháp thân của chư Phật là chân tâm bản giác của chúng sinh. Chư Phật không có chứng ngộ chi khác, chỉ là chứng ngộ chân tâm của chúng sinh.

Tâm, Phật và chúng sinh cả ba không khác biệt. Bảo rằng “tâm này làm Phật” là nói rõ do tâm biến hiện, từ nơi bản tánh mà tu hành. Bảo rằng “tâm này là Phật”, nghĩa là ngoài tâm không có Phật, ngoài Phật không có tâm.
Pháp quán này không chỉ quán xét bản tánh, mà chính là nương vào quả Phật để hiển bày nơi bản tánh. Bởi vì đồng thể nên trước nói rõ Hóa Phật ở nơi tâm tưởng của ta, tiếp theo trình bày Pháp thân Như Lai chính là tâm thể bản giác của hành giả, không hai không khác.

Kinh Đại Phẩm Bát Nhã còn nói:

“Tánh như của các pháp tức là Phật”.

Kinh Kim Cang nói:

“Như Lai nghĩa là tánh như của các pháp”.

Đã biết “NHƯ” là Phật, mà tất cả pháp đều “NHƯ”, thì pháp gì chẳng phải Phật. Cho nên vô minh, vọng tưởng điên đảo phan duyên của chúng sinh; cho đến non sông quả đất, cây cối rừng rậm, trâu ngựa heo dê, côn trùng vi tế đều là Pháp thân chân thật thanh tịnh của Phật A Di Đà. Hành giả nếu có thể Niệm Phật Pháp Thân như thế, thì trụ ở nơi chánh định, chắc chắn được sinh về cõi Thường Tịch Quang.

Kinh Duy Ma Cật nói:

“Muốn được cõi nước thanh tịnh, nên làm thanh tịnh tâm mình. Tâm mình thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh”.

Nhưng phương pháp tịnh tâm thì không có thuật nào khác, chỉ có thâu nhiếp sáu căn, chuyên tâm niệm Phật là điều thiết thực nhất.

Thế nên, bậc cao đức ngày xưa nói:

“Thanh châu gieo vào nước đục, nước đục không thể không trong. Danh hiệu Phật gieo vào tâm loạn, tâm loạn tất nhiên an định”.

Tiên Sư nói:

“Tâm tịnh cõi Phật tịnh
Lý này chẳng đổi dời
Tơ sen nếu chưa đứt.
Lôi kéo voi lớn đi”.

(Tâm thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh, lý này muôn vạn lần khó đổi dời. Nếu còn nghi ngờ sẽ chướng ngại sự tiến tu, cũng như sợi tơ sen nhỏ bé, nhưng có thể lôi kéo được voi lớn đi).

Đây đều là những lời chân thật.

Thân do cha mẹ sinh ra, tâm từ bóng duyên nơi sáu trần. Cả hai đều phải chịu sự sinh–trụ–dị–diệt, dời đổi trong từng niệm, biến hoại ở mỗi sát na, không thể nào nương tựa được lâu. Thế nên, tự mình cần nhìn thấu rõ thân–tâm hiện giờ.

Bát Nhã Tâm Kinh nói:

“Quán chiếu thấy năm uẩn đều rỗng không, vượt qua tất cả khổ đau”.

Bài kệ của Phật Câu Lưu Tôn nói:
“Thấy thân không thật là thân thật
Rõ tâm như huyễn là tâm thật
Rõ được thân–tâm vốn tánh không
Người này với Phật nào khác biệt”.

Hành giả tu Tịnh nghiệp, nên quán chiếu như thế, hiểu rõ như thế, quán xét thật tướng của thân–tâm như thế, quán xét Phật cũng như thế. Bởi vì chúng sinh và Phật đều cùng một thể không hai, không khác.

Một bộ Kinh Hoa Nghiêm là lời nói đầu tiên trong năm thời của Như Lai, là lời bàn tột cùng xứng với tự tánh thênh thang bao dung rộng lớn và đầy đủ, mà sau cùng thâu về mười đại nguyện vương của ngài Phổ Hiền, dẫn về Cực lạc. Thế nên biết, Cực lạc là lối tắt dạo biển thế giới trang nghiêm Hoa Tạng, là ngôi nhà an ổn để các bậc Tam hiền Thập thánh, chư đại Bồ tát nghỉ ngơi. Phật tử chân chánh phải nên gắng sức tu hành không nên hứa hẹn lần hồi.

Hợp Luận của Lý trưởng giả thường lấy sự Quyền và Thật của Tịnh độ để so sánh lẫn nhau, là bởi vì muốn dựa vào Lý mà nói để hiển bày Tam thừa, chỉ rõ Tịnh độ ở phương khác là phương tiện quyền biến, còn Tịnh độ duy tâm của giáo lý Nhất thừa trong kinh Hoa Nghiêm là chân thật.

Nhưng nếu chẳng có chân thật thì không thể lập bày quyền biến, chẳng có quyền biến thì không thể hiển bày chân thật. Quyền biến và chân thật đều để chỉ bày Tịnh độ Hoa Nghiêm, còn Đông–Tây–Nam–Bắc, nhơ–sạch, lớn–nhỏ, mỗi sự mỗi vật đều là pháp giới vô tận luôn chứa đựng và dung thông lẫn nhau. Dùng Thập Huyền Lục Tướng dung thông mới vào được tận cùng đạo lý. Người đọc nên khéo được ý, đừng vướng mắc vào nơi ngôn ngữ.

ĐÁP TÁM CÂU HỎI TỊNH ĐỘ CỦA CƯ SĨ CUNG TÍCH VIỆN

Hỏi: Vào đạo có nhiều môn, Thiền tông, Tịnh độ đường lối tuy khác, nhưng chỗ về vẫn là một, vốn không phân biệt hơn–kém.

Tuy nhiên, tham thiền lấy tỏ ngộ làm chính yếu, một khi công phu đến mức thì đời này liền được liễu ngộ; tu Tịnh độ lấy vãng sinh làm tiêu chuẩn, trì niệm tuy chuyên nhưng đến lâm chung mới được vãng sinh. Như thế thì cũng có trước sau, mau chậm khác nhau chăng?

Nói về việc tham cứu câu “niệm Phật là ai?”, cùng với việc khán thoại đầu “thế nào là bản tánh Di Đà?”, đây vẫn là công phu tham cứu. Những kẻ căn cơ thấp kém chưa thể làm được.

Nếu chỉ đơn giản trì một câu Phật hiệu mà muốn lúc sống có được lợi ích ngộ đạo, khi chết có được niềm vui vãng sinh. Xin Sư chỉ dạy rõ, tại sao lại được may mắn như thế?

Đáp: Tham thiền, niệm Phật vốn không phải hai pháp, nên tùy theo căn cơ của mình để thực hành sâu một môn. Các pháp ấy chỉ là phương tiện để dẫn dắt chúng sinh của Phật, Tổ, là lối tắtù để vào đạo mà thôi. Còn như nói về sự mau – chậm, trước – sau, cũng chỉ tùy theo căn cơ ban đầu của mỗi người, thật sự không có pháp nào cố định.

Về pháp tham thiền, có người từ một gậy, một tiếng hét, một lời nói, một cơ dụng liền đốn ngộ. Cũng có người suốt đời chẳng ngộ, hai hoặc ba đời mới được tỏ ngộ, cho nên bậc cao đức ngày xưa dạy người, nói rằng: “Giả sử tham cứu chưa thấu triệt, học chưa thành, nhưng một khi đã lọt vào tai thì mãi mãi thành hạt giống đạo, đời sau trở lại một khi nghe liền thấu suốt, được Đại tổng trì”.

Còn niệm Phật vãng sinh, tuy là việc của thân sau, nhưng người được khai ngộ ở hiện đời cũng không ít. Điều này có thể thấy rõ trong sử sách.

Chương Đại Thế Chí Niệm Phật Viên Thông trong kinh Thủ Lăng Nghiêm nói: “Nhớ Phật, niệm Phật, hiện tại, tương lai nhất định thấy Phật”. Nay, không luận đời này ngộ hay không ngộ, trong hai mươi bốn giờ chỉ một lòng niệm Phật, đừng để lãng quên dù trong giây phút. Nếu quên liền phải nhớ, rồi khởi sức mạnh đại nguyện thì chắc chắn được vãng sinh. Thiền sư Vĩnh minh nói: “Chỉ được thấy Di Đà, lo gì chẳng khai ngộ”. Lời này chính là để răn nhắc những người hay lo lắng niệm Phật chẳng được khai ngộ.

*
Hỏi: Người chấp trì danh hiệu Phật mà còn đọc tụng kinh điển Đại thừa, pháp này vốn thật rất ổn thỏa. Nếu người ở trong trần lao, tuổi già mới biết học đạo, lại bận việc nhà, tiếp đãi khách khứa, đủ mọi công việc không có nhiều thời giờ. Trong một ngày, nếu chỉ đọc tụng kinh điển thì giống như “vào biển đếm cát”, sẽ không thể chuyên tâm trì niệm danh hiệu Phật. Còn nếu chỉ chuyên tâm trì niệm thì ngại rằng chỗ thấy không được chân chính, khó mà thấu suốt. Vậy nên niệm–tụng song tu, hay chỉ trì danh hiệu Phật để khỏi bỏ sót pháp đơn giản nhưng quan trọng này. Cúi mong Ngài dạy rõ?
Đáp: Người tu Tịnh nghiệp đọc tụng Kinh điển Đại thừa, chính vì để thấu rõ Lý Tánh, vững chắc lòng tin chân chánh, sao lại nói “vào biển đếm cát?”. Nếu nói như thế là còn vướng mắc trong từ ngữ, chẳng thấu rõ tâm Phật, chẳng khéo đọc Kinh. Không nên chấp vào một bên, mà phải tùy theo sự tiện lợi của mình mà thực hành. Nếu thích đọc tụng thì bớt một ít thời giờ để đọc tụng, đem công đức hồi hướng Tây phương, còn nếu thích chuyên tâm niệm Phật thì cứ chuyên tâm niệm Phật. Mục đích chỉ làm cho chánh niệm liên tục là được, không nên do dự.
*
Hỏi: Bậc cao đức ngày xưa dạy người niệm Phật, cần phải: “Niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm. Niệm và vô niệm nhồi thành một khối, đó mới là công phu cao tột”. Hiện nay, người mới học trong lúc rảnh rang có thể trì niệm chẳng quên, nhưng khi gặp việc tiếp duyên bỗng nhiên quên mất. Lúc niệm thì có, khi chẳng niệm thì không. Như thế đã chia làm hai, sao có thể nhồi thành một khối? Nay muốn làm cho lúc rảnh rang, tâm tỉnh giác sáng tỏ không mờ, khi gặp việc tiếp duyên luôn giữ được câu niệm Phật, thì bằng phương pháp nào mới phù hợp?

Đáp: Niệm Phật có hai mặt: niệm về Lý, có niệm về Sự.

Nếu niệm Phật về Sự, thì chỉ nhất tâm niệm, quan trọng là niệm làm sao cho mỗi chữ rõ ràng, từng câu được nối nhau liên tục. Nếu mỗi chữ chẳng rõ ràng tức là bị hôn trầm, từng câu chẳng liên tục tức là tán loạn. Không hôn trầm, không tán loạn, một câu Phật hiệu rõ ràng hiện tiền, lâu dần tự nhiên thành tựu Niệm Phật Tam Muội.

Niệm về mặt Lý, là thấu suốt được tâm hay niệm và Phật được niệm hiện giờ do nhân duyên hợp thành, vốn không có gì, ngay nơi bản thể là tánh không. Như thế là niệm mà vô niệm.

Tuy tánh không mà tâm hay niệm và Phật được niệm luôn rõ ràng ở trước mắt, như thế chính là vô niệm mà niệm.

Tuy nhiên, niệm mà vô niệm là pháp Quán Không. Vô niệm mà niệm là pháp Quán Giả. Không và Giả chẳng hai, thì Pháp thân hiện giờ chính là pháp Quán trung đạo. Nếu có thể hành trì tương ưng với quán hạnh này, thì biết rõ Ta bà và Tịnh độ chỉ ở một nơi, Di Đà và bản thân mình vốn chẳng phải hai người khác biệt.

Niệm Phật như thế, chắc chắn vãng sinh lên thượng phẩm nơi Tịnh độ. Đó gọi là:

“Sinh thì quyết định sinh,
Đi thì thật không đi”.

Nếu chưa rõ lý tánh, thì đều chấp chặt vào mặt “có niệm”, mà không biết đạo lý “niệm mà vô niệm, vô niệm mà niệm”. Lý đã chưa tỏ, mà muốn cầu tương ưng, thật là khó khăn.

Nay chẳng luận là Sự hay là Lý, chỉ cần chuyên tâm trì niệm một câu danh hiệu Phật.

Bạch Hương Sơn nói:

“Đi cũng A Di Đà, ngồi cũng A Di Đà, cho dù bận rộn đến đâu cũng chẳng rời câu A Di Đà Phật. Lâu dần thuần thục, thành tựu chánh định. Tự nhiên rỗng rang thì tỉnh giác tỏ sáng không mờ, nên khi tiếp duyên xúc cảnh cũng không quên chánh niệm”.
*
Hỏi: Trì giới là nền tảng của sự tu hành; không sát sinh là căn bản của đại giới. Vả lại: “Nhân giới mà sinh định, nhân định mà phát tuệ”, thì Giới là đứng đầu. Nhưng người tại gia nhiễm sâu nghiệp nặng, tập khí nhiều đời khó đổi dời. Hơn nữa, từ trung niên trở về sau thân thể yếu đuối nhiều bệnh, khổ nỗi chưa dứt được việc ăn mặn, lẽ nào còn nghiệp mà được vãng sinh?

Chư Phật từ bi chẳng ngại mở ra một con đường Tịnh độ, nhưng vẫn còn tâm qua–lại, lấy–bỏ, nên khó thoát khỏi ba đường, nhân–quả trả vay đâu thể lên ngôi thượng phẩm. Như thế làm sao thoát ra được?

Đáp: Không thể trì trai giữ giới là bệnh chung của người giàu sang. Thuở xưa, Liêm Sứ ở Hồng Châu hỏi Ngài Mã Tổ về việc ăn thịt, Tổ đáp rằng:

“Ăn thịt là lộc của ông
Không ăn thịt là phước của ông”.

Không ăn thịt đã là phước, thì ăn thịt ắt mắc tội. Điều ấy quá rõ ràng.

Tô Đông Pha thông minh cái thế, thấu suốt giáo lý nhà Phật, nhưng vẫn không tránh khỏi ăn thịt chúng sinh. Hoàng Sơn Cốc suốt đời trai giới trong sạch, làm văn phát nguyện, tự khích lệ thống thiết, từng làm kệ răn nhắc Tô Đông Pha:

“Thịt ta, thịt chúng sinh

Hình khác, thể không khác

Vốn đồng một chủng tánh

Chỉ cách biệt dáng hình

Khổ đau chúng phải chịu

Vì ta cần béo ngọt

Chớ bảo Diêm Vương phán

Tự xét xem thế nào?”.

Bài kệ này dạy người rất xác đáng, vì vậy hành giả tu Tịnh nghiệp cần phải suy xét cẩn thận: “Ta ăn một miếng thịt, chúng sinh chịu khổ vô cùng, do nghĩ về nỗi khổ của chúng sinh, nên ta không ăn thịt”.

Tuy thế, việc “còn nghiệp mà được vãng sinh”, trong giáo lý có nói rõ ràng, chỉ là phẩm sen không cao mà thôi. Bậc đại trượng phu nên nhắm thẳng đến thượng phẩm, sao lại tự thu mình vào chỗ mang nghiệp vãng sinh?
*
Hỏi: Từ khi tu Tịnh độ đến nay vẫn hiểu thế giới là giả dối, thân thể là huyễn hóa, nên cũng có tỉnh giác đôi phần. Nhưng lại lo lắng bất chợt nương theo giả dối mà sinh khởi vọng tâm. Hoặc trong hoàn cảnh nghèo khó tuy hiểu là huyễn hóa, nhưng vẫn thường phát sinh vọng tưởng. Có thể hiểu mà không thể chứng đạt, nói được nhưng không làm được.

Như vậy, chẳng những khó thành tựu được Tịnh đức này, mà còn dễ làm tăng trưởng tâm nhiễm kia. Nay muốn tâm nhiễm không tăng trưởng, đồng thời thành tựu trọn vẹn được điều khó thành tựu kia, thì phải tu pháp gì mới có thể đạt được mục đích?

Đáp: Chướng có dày–mỏng, ngộ có cạn–sâu. Còn chỗ không tương ưng vì bởi cái thấy chưa thấu triệt, thực hành chưa thuần thục, chạm cảnh gặp duyên vẫn còn dao động. Đó là bệnh chung của người mới tu hành. Chỉ có người trí thì ở ngay chỗ không tương ưng đó, thường xuyên nỗ lực luyện tập khắc khổ, chân thật nhìn thấu rõ, một niệm soi sáng trở lại, ngay đó điều phục an lạc. Lâu dần tự nhiên tập thành tánh, chẳng cần phí sức.
*
Hỏi: Khi niệm Phật, tâm này tuy chưa đạt đến chỗ không loạn, nhưng cũng không đến nỗi lãng quên hoàn toàn. Chỉ về đêm, lúc ngủ nằm mộng còn cảm thấy tập khí từ trước hiện ra đủ thứ, là điều thuần thục khó quên. Nghiệp lực huân tập nhiều đời chẳng phải trong sớm chiều có thể thắng được. Trong chiêm bao còn khó làm chủ, thì đối với việc sinh–tử đâu tránh khỏi nổi chìm.

Nay muốn học theo người xưa ngồi mãi không nằm, nhưng sức lực yếu đuối, có ý nguyện học theo lại chưa được. Con người bình thường thì đêm ngủ, ngày ăn, phân chia thành khi mê–lúc tỉnh, rất khó giữ gìn lúc nào cũng như một. Nay phải dùng phương pháp gì để khiến cho thức–ngủ như một, ông chủ tỉnh giác luôn có mặt?

Đáp: Hành giả tu Tịnh nghiệp, ngay lúc ban ngày đối với cảnh phải–quấy, thương–ghét hỗn tạp, thường thường bị mất chánh niệm, theo cảnh trôi nổi, huống gì trong lúc chiêm bao!

Nói chung, đều do tình Ta bà nặng, niệm Tịnh độ nhẹ. Nếu đem tâm đó ra cân lường, sẽ thấy một bên cao, một bên thấp. Nay chỉ chân thật nhìn thấu rõ mọi việc ở thế giới Ta bà đều là đau khổ, giả dối, không có việc gì chân thật đáng lưu luyến, buông bỏ muôn duyên, dốc hết lòng niệm Phật.

Ban ngày, lúc mở mắt nếu không mất chánh niệm, thì ban đêm khi chiêm bao tự nhiên chánh niệm cũng không mất. Trong chiêm bao đã không mất chánh niệm, thì lúc chết chánh niệm ở ngay trước mắt. Đại Sư Trí Giả ở Thiên Thai nói: “Lúc lâm chung tâm ở nơi định, tức là lúc vãng sinh Tịnh độ”.

Cảnh thức, ngủ như một, giống với chỗ này.

*
Hỏi: Người xưa khi chưa rõ việc lớn, rất quý việc gần gũi bậc minh sư, sớm chiều thưa thỉnh để mong cầu thấu triệt.

Thế nên, mới có việc Ngài Đặng Ẩn Phong “ba lần lên, chín lần đến” hỏi đạo với Thiền sư Thạch Đầu. Ngày xưa có tương truyền, thấy tánh như ngài Triệu Châu, mà lúc tuổi đã tám mươi rồi còn phải hành cước khắp nơi tham vấn các bậc thiện tri thức.

Nay người tu Tịnh độ, tuy chỉ trì niệm danh hiệu của một đức Phật, nhưng cũng mong thấu rõ được tâm tánh mình, thì cũng giống nhau cả thôi. Thời gian và nơi chốn của người tại gia luôn bị giới hạn, không được như người xuất gia có thể đi ngàn dặm để học đạo. Dù có tạm thời gần gũi bậc Đạo sư, cũng không được như người xuất gia thoát tục. Sáng–chiều phải đối diện với vợ con, quyến thuộc, mắt thấy–tai nghe đều là việc chướng đạo nghiệp lụy. Nhất quyết muốn cắt đứt dứt hẳn để thân cận với bậc thiện tri thức, thì phải xuất gia rời thế tục, nhưng nếu còn ở trong nhà cũng cần phải tự mình có phương tiện khéo léo. Nay rất muốn được nghe chỉ dạy về việc này!

Đáp: Hành giả tu Thiền hay tu Tịnh, chẳng luận tại gia hay xuất gia, hãy xem nguyên nhân phát tâm có chân thật hay không.

Nếu như phát tâm chân thật, thì tuy ở nhà đoàn tụ với vợ con, quyến thuộc, nhưng trí tuệ vẫn sáng suốt không bị trở ngại. Xưa nay mắt thấy–tai nghe những người tại gia đắc đạo rất nhiều, rõ ràng có thể khảo sát, đâu cần thiết mọi người đều phải xuất gia tham vấn, sau đó mới có thể học đạo?
Thế nên, phẩm Tịnh Hạnh trong Kinh Hoa Nghiêm bảo: “Hành giả phải khéo dụng tâm, chạm cảnh gặp duyên thường phát một trăm bốn mươi nguyện”. Nguyện thứ nhất nói rằng:

“Bồ tát tại gia
Nên nguyện chúng sinh.
Biết nhà tánh không
Khỏi sự bức bách”.

Nếu quả thật biết rõ bản chất của gia đình vốn rỗng không, thì tất cả tùy duyên, chẳng sinh tâm tham luyến vướng mắc. Khi bồng con, đùa cháu, vui cười, mắng giận đều đủ để khai phát bản tánh, hỗ trợ cái nhìn chân chính. Như thế, đâu cần phân biệt tại gia hay xuất gia!

Còn nếu là người phát tâm không chân thật, thì không chỉ tại gia chẳng đắc đạo, mà ngay cả xuất gia cũng chỉ là “ông Tăng vì cơm áo” mà thôi.

*
Hỏi: Người xưa tham thiền, có vị tu hai, ba mươi năm giữ một câu thoại đầu mà còn chưa thấu triệt. Ngay cả như ngài Triệu Châu còn phải không để tâm xen tạp suốt bốn mươi năm. Thiền sư Hương Lâm hành trì trong bốn mươi năm mà con trâu còn rong chạy, huống gì người khác.

Nay niệm một câu Phật hiệu và tham một câu thoại đầu chỉ là một, nhưng tuổi đã quá năm mươi, sắc thân mỗi ngày suy yếu bởi già bệnh nên càng thêm lụm cụm, rất muốn một đời xong xuôi, nên e rằng từ đây trở về sau, chưa chắc đã có hai, ba mươi năm để công phu đạt đến cảnh giới An Dưỡng.

Cảnh giới An Dưỡng chẳng phải việc dễ dàng, đâu thể chỉ trì niệm qua loa đạt đến được. Vậy phải thực hành thế nào mới toại nguyện? Cúi mong Sư chỉ rõ để nhắc nhở tiến thêm!

Đáp: Tham thoại đầu chính là công phu vào cửa của người mới tu. Còn như ngài Triệu Châu bốn chục năm không dụng tâm xen tạp; Thiền sư Hương Lâm bốn chục năm mà con trâu còn rong chạy, chính là con đường diệu huyền thực hành sau khi ngộ.

Bảo rằng học Phật, học Pháp là dụng tâm xen tạp; rơi vào tình phàm, kiến giải Thánh đều là rong chạy. Như thế đâu thể xét chung với việc khán thoại đầu được!

Thế Tôn ở ngoài pháp môn Tam thừa, mở riêng một môn Tịnh độ, gọi là “phương tiện thù thắng”, là “lối tắt tu hành”, hay còn gọi là “ra khỏi ba cõi theo chiều ngang”. Thiền sư Vĩnh Minh gọi là: “Muôn người tu, muôn người vãng sinh”.

Bởi vì, dựa vào sức mạnh của lòng tin, sự thực hành và tâm phát nguyện của chính mình, lại có thêm sức mạnh từ bi gia hộï của Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Âm và Thế Chí cùng chư Đại Thánh chúng, ví như xuôi buồm thuận gió tiến thẳng đến bờ kia, có gì gian nan hiểm trở. Thế nên, người tạo mười điều ác, chỉ trong mười niệm còn được vãng sinh. Chim Oanh Vũ theo vị Tăng niệm Phật còn được thoát kiếp chim lồng, hoa sen mọc lên từ lưỡi. huống gì bậc nam tử đầy đủ niềm tin chân chánh và phước tuệ, nhất tâm niệm Phật mà không được vãng sinh hay sao?

Cần gì lo lắng phải công phu hai, ba mươi năm sau đó mới được thành tựu. Chỉ e lòng tin không vững chắc, niệm Ta bà sâu nặng, còn tâm Tịnh độ thì cạn mỏng, nên chẳng được tương ưng. Như thế chính là chỉ ở nơi mình tự cố gắng hết lòng mà thôi.

Ngày xưa, có vị quan tên Ngô Tử Tài ở nhà chuyên tu Tịnh độ, tự đặt một chiếc quan tài trong nhà và thường nằm trong đó. Ông sai đồng tử mỗi sáng gõ vào quan tài gọi dậy, ca lên rằng:

Ngô Tử Tài!
Về đi thôi
Ba cõi không an, chớ nên ở.
Tây phương Tịnh độ có Liên Đài!

Đó chính là lo lắng thói quen xấu ác ràng buộc, nên phải tự mình đối trị như thế. Vậy mới mong được dễ dàng thành tựu Niệm Phật Tam Muội.

DẠY THIỀN NHÂN ĐỨC CHƯƠNG

Thượng tọa Đức Chương trở về Duy Dương, ở vườn Cực lạc, buông bỏ mọi việc để tiến tu Tịnh nghiệp. Lại không ngại mấy ngàn dặm xa xôi gửi thư đến, hỏi về pháp tu Tịnh độ.

Tôi bảo: “Người tu Tịnh nghiệp trước phải nhìn thấu mọi thứ tệ ác trong cõi Ta bà đều là đau khổ, chẳng sinh tâm tham luyến.

Sau đó chuyên tâm hướng về Tịnh độ, mỗi ngày đọc tụng kinh điển Đại thừa, dốc lòng niệm Phật, phát nguyện hồi hướng. Năm tháng tích lũy lâu dài, tự nhiên thành tựu Niệm Phật Tam Muội. Đó gọi là: “Muôn người tu, muôn người vãng sinh”.

Tuy niệm Phật có đủ vô lượng pháp môn, nhưng chỉ có pháp Trì Danh Niệm Phật là thẳng tắt nhất. Kinh A Di Đà nói: “Chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn. Người ấy lúc sắp mạng chung, Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng hiện ra trước mắt. Người ấy lâm chung, tâm không điên đảo liền được vãng sinh cõi nước Cực lạc”, chính là nói điều này. “Nhất tâm không loạn” là nói pháp niệm Phật cần phải không mau không chậm, quan trọng là niệm cho mỗi chữ mỗi chữ rõ ràng, mỗi câu mỗi câu liên tục. Bởi vì không liên tục, thì ý niệm duyên theo ngoại cảnh, như thế không phải là nhất tâm. Không rõ ràng thì tâm liền mờ tối, rối loạn. Rời hai bệnh này, chính là khéo biết niệm Phật.

Nay bất luận là Sự hay Lý, chỉ đem một câu A Di Đà Phật hết lòng trì niệm, lòng tin chân thật tha thiết thì tự nhiên được tương ưng.

Chư Phật trong sáu phương đều hiện tướng lưỡi rộng dài che khắp ba ngàn thế giới, nói lời thành thật, chính vì sợ chúng sinh không tin nổi. Kinh Hoa Nghiêm quy hướng về mười đại nguyện vương của Bồ tát Phổ Hiền dẫn về Cực lạc. Vì thế, ông nên luôn luôn nghiền ngẫm kỹ để bồi đắp lòng tin chân chánh, không thể xem thường!

THƯỢNG TỌA VIÊN HẠNH Ở ÔN LĂNG THỈNH KHAI THỊ VỀ TỊNH ĐỘ

Sư bảo:

Hôm nay, do Thượng tọa Viên Hạnh ở am Bách Nguyên hướng dẫn các đạo hữu trong Liên Xã thiết lập trai đàn, mời Sơn tăng lên tòa khai thị pháp môn Tịnh độ. Sơn tăng tuy chủ trì tông môn, nhưng thật ra tu trì Tịnh nghiệp trọn vẹn.

Khổng Tử nói:

“Chí của ta ở nơi Xuân Thu, mà hạnh thì ở nơi Hiếu Kinh”.
Sơn tăng cũng trộm bảo:
“Chí của tôi ở Thiền tông, mà hạnh nơi Tịnh độ”.

Cho nên hôm nay, không quản ngại nhọc nhằn ở trước đại chúng, nhận lấy một phen bại trận, mặc cho người sáng mắt kiểm điểm. Đại chúng có biết hay chăng?

Tịnh độ của Phật A Di Đà, chư Phật trong mười phương đều cùng nhau khen ngợi. Các Tổ sư bao đời khác miệng chung lời, nói rằng: “Đây là con đường thẳng tắt về nhà rất an ổn”.

Không luận Tăng–tục, sang–hèn, nam–nữ, chỉ cần dốc hết tâm sức niệm Phật, thì nhất định được vãng sinh; vừa thấy Phật Di Đà liền vĩnh viễn bước lên hàng Bất thối chuyển, luôn luôn được nghe pháp, mỗi niệm mỗi niệm tiến đến Phật quả. Công đức lợi ích ấy thật chẳng thể nghĩ bàn!

Song, những người tham thiền gần đây không rõ ý chỉ, thường chấp Di Đà là tự tánh, Tịnh độ ở nơi tâm, không tin pháp môn Tịnh độ, thậm chí còn truyền rộng tà thuyết này hủy hoại lòng tin của mọi người. Những kẻ ấy không chỉ tự mình sai lầm mà còn làm cho người khác sai lầm theo.

Thế nên đương thời, Thiền sư Diên Thọ ở chùa Vĩnh Minh, từng răn dạy sâu sắc những người không chứng ngộ chớ nên xem thường Tịnh độ. Ngài còn làm Tứ Liệu Giản, bảo rằng:

1. Có Thiền, không Tịnh độ
Mười người, chín lạc lối
Lúc Ấm cảnh hiện ra
Liền theo đó mà đi.

Nghĩa là người chỉ thấu rõ lý Tánh, không phát nguyện vãng sinh. Ở lâu dài nơi Ta bà, thì có nỗi lo về Ấm cảnh, như năm mươi loại Ấm ma trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, chính là nói điều này.

2. Không Thiền, có Tịnh độ
Muôn tu, muôn vãng sinh
Chỉ được thấy Di Đà
Lo gì chẳng khai ngộ.

Nghĩa là người tuy chưa thấu rõ lý tánh, chỉ cần một lòng niệm Phật và phát nguyện vãng sinh, khi đã gặp Phật A Di Đà thì tự nhiên khai ngộ.

3. Có Thiền, có Tịnh độ
Như cọp mọc thêm sừng
Đời nay làm thầy người
Đời sau làm Phật Tổ.

Nghĩa là thấu rõ lý tánh lại tu Tịnh nghiệp, đây chính là nhân quả thù thắng vi diệu, lợi mình–lợi người đời đời kiếp kiếp.

4. Không Thiền, không Tịnh độ
Giường sắt với cột đồng
Trải muôn kiếp ngàn đời
Chẳng một ai nương tựa.

Nghĩa là đã không thấu rõ lý tánh, lại chẳng nguyện vãng sinh, mãi đắm chìm trong biển khổ, biết ngày nào ra khỏi.

Thiền sư Diên Thọ hết lời khuyên răn dạy bảo tới lui như thế, có thể thấy rằng: “Phật không thể không niệm, Tịnh độ không thể không vãng sinh”. Điều đó quá rõ ràng. Lẽ nào lại chấp suông vào sự hiểu biết cuồng dại, rồi tự để lại lo lắng cho mình về sau?

Trong đại chúng tương đối cũng có người tin tưởng hướng về, nhưng chẳng qua chỉ thả trôi qua ngày, miệng tuy nói về Tịnh độ nhưng tâm ràng buộc chốn Ta bà. Cho nên, người niệm Phật thì nhiều như lông trâu, mà người vãng sinh lại ít như sừng lân. Không phải bảo rằng hoàn toàn không có, nhưng rất là hiếm. Do đó, Sơn tăng thường khuyên đệ tử tu Tịnh nghiệp, phải có đủ ba loại tư lương:

Một là phát khởi lòng tin vững chắc.
Hai là tu hạnh chân thật.
Ba là phát nguyện rộng lớn.

 Sao gọi là lòng tin vững chắc?

Nghĩa là phải tin cõi Ta bà rõ ràng đau khổ, cõi Tây phương chắc chắn an vui. Phật A Di Đà, Bồ tát Quán Âm, Thế Chí hiện đang ở thế giới Ta bà này thâu nhận chúng sinh niệm Phật vãng sinh Tịnh độ, điều đó thật sự không giả dối.

Lại phải tin rằng Phật A Di Đà là thân pháp giới ở khắp trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh. Khi chúng sinh niệm Phật thì: “Tâm này tức là ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tâm này làm Phật, tâm này là Phật”. Như trong Kinh Hoa Nghiêm, Trưởng giả Giải Thoát nói:

“Nếu ta muốn thấy Phật A Di Đà ở thế giới An lạc, tùy ý liền thấy ngay”.
Tin được như thế mới là lòng tin vững chắc.

 Sao gọi là tu hạnh chân thật?

Nghĩa là người tu Tịnh nghiệp trước phải nhìn thấu được bản chất của thế gian, buông bỏ muôn duyên, suốt hai mươi bốn giờ, trong bốn oai nghi đem một câu A Di Đà Phật hết lòng trì niệm.

Điều quan trọng là niệm làm sao cho mỗi chữ, mỗi chữ rõ ràng; từng câu, từng câu liên tục. Niệm đến khi không còn phải nhớ niệm mà tự nơi tâm mình niệm, đó là niệm mà không niệm. Dù gặp đủ mọi cảnh duyên khác biệt, nhưng câu niệm Phật này vẫn rõ ràng hiện tiền. Trong sinh hoạt hằng ngày, niệm Phật như thế mới là hạnh chân thật.

 Sao gọi là phát nguyện rộng lớn?

Trên hội Hoa Nghiêm, Bồ tát Phổ Hiền sau khi phát mười nguyện lớn rồi, lại còn phát nguyện rằng:

“Nguyện con đến lúc sắp lâm chung
Diệt trừ tất cả các chướng ngại
Tận mặt gặp Phật A Di Đà
Liền được vãng sinh cõi Cực lạc.
Con đã vãng sinh cõi kia rồi
Hiện tiền thành tựu nguyện lớn này
Tất cả tròn đầy không thiếu sót
Lợi lạc hết thảy các chúng sinh.
Chúng hội Phật ấy đều thanh tịnh
Con từ hoa sen nở sinh ra
Tận mắt thấy Phật Vô Lượng Quang
Hiện tiền thọ ký quả Bồ đề.
Con được Như Lai thọ ký rồi
Hóa thân vô số muôn ngàn ức
Trí lực rộng lớn khắp mười phương
Lợi ích tất cả các chúng sinh”.
Phát nguyện như thế mới gọi là rộng lớn.

Bởi vì nếu nguyện không rộng lớn tức là nguyện nhỏ hẹp; hạnh không chân thật tức là hạnh giả dối; lòng tin không vững chắc tức là lòng tin nông cạn. Người như thế muốn được vãng sinh, thật rất khó khăn.

Nếu lòng tin đã vững chắc, hạnh lại chân thật; phát nguyện được rộng lớn, giống như thuận buồm xuôi gió tiến thẳng đến bờ kia, có gì gian nan hiểm trở?

Lại cần phải biết, thế giới Ta bà, sáu nẻo luân hồi chịu mọi thứ đau khổ, chỉ vì một chữ “Ái”. Thế giới Cực lạc thọ hưởng đủ mọi niềm vui, nhất định tiến đến chỗ thành Phật là do một chữ “Tịnh”. Thế nên, bậc cao đức ngày xưa nói:

“Ái không nặng, không sinh Ta bà
Niệm không tịnh, không sinh Tịnh độ”.

Do đó, người tu Tịnh nghiệp cần phải mạnh mẽ cắt đứt duyên ái, siêng năng tu tập tịnh niệm. Lúc tịnh niệm thành tựu, cũng chính là lúc hoa nở thấy Phật, đã thấy Phật rồi mới biết tuy trọn ngày niệm Phật, mà chẳng trái với vô niệm, rõ ràng vãng sinh vốn không trái với vô sinh.

Phàm và Thánh đều ở nơi vị trí của mình, mà đạo cảm ứng qua lại. Đông–Tây chẳng lại qua, mà thần thức siêu sinh Tịnh độ. Nghiệp trói cột khổ đau chẳng thể buộc ràng, lửa trong kiếp thiêu chẳng thể đốt cháy. Trừ bỏ năm tướng suy hao trên cõi Trời, không còn tám nỗi khổ đau ở nhân thế. Gió thổi vi vu lay cành báu, sóng nước xao động lấp lánh ánh vàng. Thiên nhạc diễn thuyết pháp khổ–không, chim linh tuyên bày diệu pháp. Chẳng nhờ vào pháp thuật nào khác, chính là “quê xưa cảnh cũ” của chính mình. Các ông rõ biết hay chăng?

Tự chẳng muốn về, về liền đượcCảnh đẹp Ngũ Hồ có ai tranh?

KHAI THỊ CHO THƯỢNG NHÂN DUY TƯỜNG

Ngày xưa, Thế Tôn ở trong Tam thừa riêng biệt mở ra một môn Tịnh độ, gọi là “lối tắt tu hành”, cũng gọi là “vượt khỏi ba cõi theo chiều ngang”. Vốn bảo rằng: “Niệm Phật vãng sinh rất dễ dàng”.

Thời nay, người niệm Phật thì nhiều, người vãng sinh lại ít. Tại sao như thế? Bởi vì chẳng nhìn thấu Ta bà, chẳng tin nơi Cực lạc. Ta bà tệ ác đủ mọi bức bách, có chỗ nào mà nhìn không thấu suốt. Cực lạc thì Y báo, Chánh báo vô vàn thù thắng.

Chư Phật trong mười phương, các Tổ sư bao đời nhiều lần hết lời khuyên bảo tới lui việc vãng sinh, còn có chỗ nào mà không tin? Nếu thật sự không tin, không nhìn thấu suốt tức là chúng sinh ngu si không trí tuệ, mù tối, chỉ lo việc trước mắt, chẳng biết lo sợ về sau. Thế thì, nỗi khổ sau này chưa biết bao giờ kết thúc.

Chỉ có người trí mới nhìn thấu rõ mọi việc ở thế giới Ta bà, tin sâu chắc những điều nơi thế giới Cực lạc. Sau đó buông bỏ muôn duyên, trong bốn oai nghi đều chuyên tâm trì niệm một câu “A Di Đà Phật” này.

Điều quan trọng là niệm làm sao cho mỗi chữ mỗi chữ được rõ ràng, từng câu từng câu đều đặn liên tục. Niệm đến khi chỉ còn tâm thanh tịnh không loạn động. Lúc hoa nở thấy Phật mới hay niệm tức là Phật, Phật tức là niệm; niệm chẳng phải niệm, Phật chẳng phải Phật; Di Đà và chính mình hoàn toàn là một, Cực lạc–Ta bà trở nên đồng nhất.

Sau đó đem pháp như thế để độ chúng sinh cũng như thế, nguyện đạt tới phẩm cao nhất trong chín phẩm, đầy đủ ba kỳ kiếp chỉ trong một đời, trên báo đáp được bốn ân, dưới cứu giúp ba cõi. Như thế mới là người Phật tử chân chánh.

Thời gian chẳng đợi người. Mỗi người nên tự cố gắng.

KHAI THỊ CHO VƯƠNG LIÊN THẬT

Sư bảo: “Ông thờ Phật, ăn chay, dốc lòng tu Tịnh nghiệp, còn mời Sơn tăng nói rõ yếu chỉ Tịnh độ để làm công cứ, mà ông có thể hội chăng?”.

Nghiệp thiện–nghiệp ác đều do tâm tạo; uế độ–Tịnh độ đều từ tâm sinh.

Do đó, Thế Tôn nói:

 Tâm ngay thẳng là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh không xiểm nịnh đến sinh trong thế giới của Ngài.

 Tâm sâu xa là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh đầy đủ công đức đến sinh trong thế giới của Ngài.

 Tâm Đại thừa là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh Đại thừa đến sinh trong thế giới của Ngài.

Cho đến bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ đều là Tịnh độ của Bồ tát. Khi Bồ tát thành Phật, những chúng sinh đầy đủ Lục độ sinh về trong thế giới của Ngài.

Thế nên nói: “Muốn được Tịnh độ nên làm thanh tịnh tâm mình. Tâm mình thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh”.

Dám hỏi: “Rốt cuộc làm sao để được tâm thanh tịnh? Ông có tỏ rõ hay chăng?”.

Xưa nay không một vật

Bụi bặm bám vào đâu?

Vừa niệm A Di Đà

Tịnh độ sen đã nở.

Ngũ trược vốn thanh tịnh

Tam kỳ chẳng an bày

Người người trong nhà lửa

Đều ngồi đài sen báu.

VĂN KHUYÊN NIỆM PHẬT

Nói về tình người, không ai chẳng chán khổ ưa vui, bỏ khổ lấy vui. Vậy mà hiện nay có nhiều sự khổ đau cùng cực, nhưng vẫn không biết chán nản rời bỏ; Lại biết có niềm vui tột bực mà chẳng biết ưa thích nhận lấy. Như thế không phải rất mê lầm hay sao?

Sự khổ đau cùng cực chính là nơi thế giới Ta bà này, sinh–già–bệnh–chết đủ mọi bức bách.

Niềm vui tột bực chính là thế giới Cực lạc của Phật A Di Đà ở phương Tây, có đầy đủ Y báo, Chánh báo thanh tịnh trang nghiêm.

Bậc cao đức ngày xưa, vì thấy chúng sinh mãi mê lầm không thấu suốt nguyên nhân đau khổ và an vui, nên mới so sánh giữa Ta bà và Tịnh độ. Nói rằng:

 Ở cõi này loài người bẩm thọ thân hình máu thịt, có sinh là có khổ; cõi kia thì chúng hữu tình đều hóa sinh nơi hoa sen, không còn sự khổ về sinh.

 Ở cõi này thời tiết đổi dời, con người lần lần đi đến cảnh già yếu; cõi kia không có sự thay đổi nóng–lạnh, chúng sinh không bị khổ suy già.

 Ở cõi này con người mang thân hữu lậu dễ sinh nhiều bệnh hoạn, cõi kia thì chúng sinh thân thể phước báo thanh tịnh, không có sự khổ về đau yếu.

 Ở cõi này ít ai sống đến bảy mươi, cơn vô thường mau chóng; cõi kia thì chúng sinh mạng sống đến kiếp vô lượng vô biên, không có sự khổ về chết.

 Ở cõi này con người bị sợi dây thân tình, ái luyến ràng buộc, chịu nỗi đau khổ vì chia lìa; nơi cõi kia chúng sinh đều là quyến thuộc Bồ đề, nên không bị khổ về ân tình chia cách.

 Ở cõi này có nhiều sự ganh ghét oán thù, nên khi gặp gỡ tất phải chịu nhiều nỗi phiền não khổ đau; nơi cõi kia toàn bậc thiện nhân nên không có sự khổ về oan gia hội ngộ”.

 Ở cõi này con người phần nhiều nghèo khổ thiếu kém, tham cầu không thấy đủ; nơi cõi kia, sự thọ dụng về ăn, mặc, ở, các thứ trân báu đều được hóa hiện tự nhiên.

 Ở cõi này con người hình thể xấu xa, các căn không đủ; cõi kia chúng sinh tướng hảo trang nghiêm, thân thể có ánh sáng xinh đẹp.
 Ở cõi này chúng sinh xoay vần trong vòng sinh–tử; nơi cõi kia bậc thượng thiện nhân đều chứng Vô sinh pháp nhẫn” (lý thể chân như thật tướng xa lìa sinh diệt).

 Ở cõi này tu hành khó thành đạo quả. Nơi cõi kia mọi người tiến lên ngôi Bất thối chuyển dễ dàng”.

 Ở cõi này nhiều gò nổng hang hố, rừng rậm chông gai, đầy dẫy các tướng nhơ ác; nơi cõi kia vàng ròng làm đất, cây báu vút trời, lầu chói trân châu, hoa khoe bốn sắc.

 Ở cõi này rừng Ta La Song Thọ đã khuất bóng đức Phật, hội Long Hoa của Bồ tát Di Lặc còn xa diệu vợi; nơi cõi kia, Di Đà Thế Tôn hiện đang thuyết pháp.

 Ở cõi này chỉ mến danh lành của Bồ tát Quán Âm, Thế Chí; nơi cõi kia, chúng sinh thường làm bạn với các Ngài.

 Ở cõi này bọn ma cùng ngoại đạo làm não loạn người tu hành chân chánh; nơi cõi kia, chỉ thuần là sự giáo hoá của Phật, tà ma không còn dấu vết”.

 Ở cõi này tài sắc, âm thanh, danh lợi khiến người tu mê hoặc; nơi cõi kia có Y báo và Chánh báo thanh tịnh, hoàn toàn không có bóng người nữ.

 Ở cõi này ác thú, ma quái gào thét rùng rợn. Nơi cõi kia, chim, nước, cây rừng thường nói pháp mầu.

So sánh hai cõi, cảnh duyên hơn–kém nhau rất xa. Sự thù thắng của cõi Cực lạc thật không sao có thể kể hết!

Nay đã nói rõ đến như thế, vậy mà người đời vẫn mịt mờ, không biết ưa thích niềm vui Cực lạc, chán nản nỗi khổ ở Ta bà, bỏ đây về kia. Đó đều do tập khí hư vọng nhiều đời che đậy tự tâm, trí tuệ chẳng phát sinh, nên xét lý không sáng tỏ.

Than ôi! Người không lo xa ắt có buồn gần. Người đời đều biết có ngày sẽ chết, nhưng chẳng vì điều đó mà chọn lựa nơi tốt đẹp cho thân sau, thật là một lối đi rất sai lầm. Cho nên, Thế Tôn ra đời, dùng nhiều thứ phương tiện khuyên người niệm Phật cầu vãng sinh Tịnh độ, đều là chỉ dạy mọi người một con đường đi.

Kinh A Di Đà nói:

“Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe nói về Phật A Di Đà bèn chấp trì danh hiệu, hoặc một ngày hoặc hai ngày cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn. Người ấy lúc sắp lâm chung, Phật A Di Đà cùng chư Thánh chúng hiện ra trước mắt.

Khi người ấy lâm chung, tâm không điên đảo liền được vãng sinh cõi nước Cực lạc của Phật A Di Đà”.

Một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày dốc hết lòng niệm Phật, còn được vãng sinh. Thì huống chi một tháng, một năm, cho đến trọn đời dồn hết tâm sức để niệm Phật, chẳng lẽø không được vãng sinh hay sao?

Kinh Quán Vô Lượng Thọ còn nói:

“Nếu có chúng sinh tạo nghiệp bất thiện, năm tội nghịch, mười điều ác. Do nghiệp ác, nên phải đọa vào đường ác. Nếu có thể chí tâm niệm Phật không dứt tiếng, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Bởi xưng danh hiệu Phật, nên trong mỗi niệm mỗi niệm trừ được tội nặng của sự sinh tử trong tám mươi ức kiếp. Lúc mạng chung thấy hoa sen vàng giống như mặt trời ở trước mặt, chỉ trong khoảnh khắc liền được vãng sinh Cực lạc”.

Người tạo mười điều ác, chỉ trong khoảnh khắc niệm mười câu Phật, nương nguyện lực của Phật còn tiêu diệt tội lỗi được vãng sinh. Huống chi người có lòng tin chân chánh, niệm trăm câu, ngàn câu, muôn câu, cho đến niệm Phật nhiều vô số kể, mà không được tiêu diệt tội lỗi vãng sinh hay sao?

Thế nên, tôi khuyên tất cả người đời nên tranh thủ chút ít thời gian rảnh rỗi trong lúc bận rộn, mỗi ngày niệm Phật hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc muôn câu. Niệm xong rồi thì điền vào vòng tròn, hồi hướng Tịnh độ. Một năm đã mãn, sau đó tính chung lại xem niệm Phật được mấy muôn câu, ghi vào trong sổ, thọ trì suốt đời, dần dần tích lũy Tịnh nghiệp. Người ấy hiện tại được ánh sáng của Phật chiếu soi, tội diệt–phước tăng, về sau được ba vị Thánh ở Tây phương tiếp dẫn sinh về Tịnh độ.

Hạnh chân thật, nguyện chân thật, nhân chân thật, quả chân thật. Nếu chịu tin theo đây mới là người bạn pháp chân thật.

VĂN KHUYÊN NIỆM PHẬT PHÓNG SINH

Con người sống ở trên đời này một trăm năm có bao lâu. Một hơi thở không trở lại liền qua đời khác, muôn thứ chẳng đem được, chỉ có nghiệp theo mình. Ngay lúc ấy dù muốn niệm một câu Phật, nhưng có được chăng? Muốn thả một sinh mạng có được chăng?

Thế nên, hôm nay tôi khuyên khắp tất cả mọi người, không luận sang–hèn, giàu–nghèo, nam–nữ, già–trẻ đều có thể xoay đầu nhìn lại để thấu rõ điều này, rồi tranh thủ thời gian rảnh trong một ngày niệm Phật ba thời, giảm bớt những việc phù phiếm uổng phí hơi sức. Ngoài ra còn phải cứu sinh mạng lúc nguy ách, để làm chánh nhân Tịnh độ, gieo trồng hạt giống từ bi.

Bảo rằng niệm Phật, không phải niệm Phật nào khác, chính là niệm Phật A Di Đà ở thế giới Cực lạc. Do đức Phật ấy từ xa xưa đã phát thệ nguyện lớn, thâu nhận những chúng sinh niệm Phật vãng sinh Tịnh độ.

Phóng sinh, chẳng phải thả sinh mạng nào khác, đó chính là thả sinh mạng lục thân quyến thuộc nhiều đời của chính mình. Bởi vì chúng từ xa xưa đến nay đã từng cùng ta làm cha con, thân quyến, chỉ vì thay hình đổi dạng, nghiệp báo khác nhau nên không còn nhận ra nhau nữa.

Vì sao biết như thế?

Kinh A Di Đà nói:

“Từ đây qua phương Tây cách mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực lạc. Đức Phật ấy hiệu là A Di Đà, hiện nay đang thuyết pháp… Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe nói về Phật A Di Đà liền chấp trì danh hiệu. Hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, cho đến bảy ngày nhất tâm không loạn, thì người ấy lúc sắp lâm chung, tâm không điên đảo liền được vãng sinh cõi nước Cực lạc của Phật A Di Đà”.

Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói:

“Nếu có chúng sinh có thể chí tâm niệm Phật không dứt, đầy đủ mười niệm xưng Nam Mô A Di Đà Phật. Do xưng niệm danh hiệu Phật, nên trong mỗi niệm, mỗi niệm diệt trừ tội nặng của sự sinh–tử trong tám mươi ức kiếp. Lúc mạng chung, thấy hoa sen vàng giống như mặt trời ở trước mặt, chỉ trong khoảnh khắc liền được sinh về thế giới Cực lạc”.

Kinh Lăng Nghiêm nói:

“Nhớ Phật, niệm Phật trong hiện tại, thì tương lai nhất định thấy Phật”.
Như những lời nói trong ba bộ Kinh trên, há chẳng phải là sự minh chứng của việc niệm Phật A Di Đà vãng sinh Tịnh độ hay sao?

Kinh Hoa Nghiêm nói:

“Đối với tất cả chúng sinh có mạng sống, nên thường phát sinh lòng từ bi lợi ích, chẳng có tâm ác làm hại chúng sinh. Huống gì đối với chúng sinh lại khởi tư tưởng cố ý sát hại” .

Kinh Lăng Già nói:

“Có vô lượng lý do không nên ăn thịt. Vì tất cả chúng sinh từ xưa đến nay do nhân duyên thường làm thân quyến của ta. Do là người thân, vì thế không nên ăn thịt”.

Kinh Phạm Võng nói:

“Vì lòng từ bi, nên thực hành phóng sinh. Phải suy nghĩ thế này: “Tất cả người nam là cha ta; tất cả người nữ là mẹ ta, ta đời đời kiếp kiếp đều từ họ thọ sinh. Vì vậy chúng sinh trong sáu nẻo đều là cha mẹ của ta. Nếu ta giết chúng để ăn tức là giết cha mẹ ta vậy”.

Như lời nói trong ba bộ Kinh trên, lẽ nào chẳng phải là sự minh chứng của việc phóng sinh, chính là thả quyến thuộc nhiều đời của mình hay sao?

Bậc cao đức ngày xưa bảo rằng: “Lời Phật nói không tin, vậy lời ai đáng tin? Đạo làm người mà không tu, thì tu đạo gì?”.

Nay đã được sinh trong loài người, đã được nghe lời Phật nói mà không tin, không tu, thì tôi chẳng biết phải làm thế nào nữa?

Sự xấu kém và tốt đẹp giữa Ta bà và Tịnh độ; tội–phước và nhân–quả của việc sát sinh cùng phóng sinh, đều được ghi chép rộng rãi trong Kinh điển rồi, nên không cần phải nói nhiều ở đây.

Mong những bậc cao minh nên tự xem rộng, để chuyển hóa những người chưa tin. Nếu làm được như thế thì công đức vô lượng!

DIỄN KỆ KHUYÊN NIỆM PHẬT CỦA HÒA THƯỢNG THIỆN ĐẠO

(Mỗi câu thành một bài thơ)
Da mồi tóc bạc lần lần
Thời gian âm thầm thôi thúc
Thấy người già cả xót thương
Chẳng biết quán sát thân mình
Phải rõ thân này chẳng thật
Tựa như bọt nước trôi sông
Khuyên người kịp thời niệm Phật
Đừng đợi đến khi già yếu.
*
Lụm cụm bước run mấy chốc
Chẳng còn đi xa được nữa
Nhớ lại năm xưa mạnh khỏe
Luống uổng long đong cả đời
Chưa từng đạp trên đất thật
Nào biết tỉnh xét lại mình
Khuyên người kịp thời niệm Phật.
Dẫu sang vàng ngọc đầy nhà
Ngày đêm lo lắng tính toan
Một mai nhắm mắt xuôi tay
Đều do người khác làm chủ
Quên mất kho báu nhà mình
Đuổi theo ngói gạch kẻ khác
Khuyên người dốc lòng niệm Phật
Tây phương chính thật đất báu.
*
Vẫn khổ suy già, bệnh tật
Trên đời khó kẻ tin được
Chỉ cậy sức mình mạnh mẽ
Nào xét già bệnh theo chân
Một mai triền miên giường bệnh
Tám khổ nung nấu đốt thiêu
Khuyên người gắng sức niệm Phật
Vào thẳng thai sen gởi chất.
*
Ví hưởng khoái lạc nghìn muôn
Đâu biết vui là nhân khổ
Thân này chỉ toàn nghiệp tội
Muôn kiếp đâu khỏi trầm luân
Thiện–ác, U minh có sổ
Tên tuổi đều ghi rõ ràng
Khuyên người một lòng niệm Phật
Ánh tuệ xua tan tình mê.
*
Đâu khỏi vô thường chết mất
Một hôm buông hết muôn thứ
Chỉ lấy mảnh đất non xanh
Xương trắng vùi sâu nơi đó
Không một vật gì là ta
Chẳng đem theo được mảy may
Khuyên người lo niệm Phật trước
Gốc sen vun bồi chắc sâu.
*
Duy có đường tắt tu hành
Một ngày hơn cả muôn đời
Chỉ quí hạnh nguyện nơi người
Cũng nhờ ánh sáng của Phật
Chánh định thường luôn thành tựu
Tội lỗi mỗi niệm băng tan
Khuyên người tín tâm niệm Phâït
Đài sen thượng phẩm nêu danh.
*
Chỉ niệm A Di Đà Phật
Chẳng cần tìm pháp môn khác
Ngay đây chuyển phàm thành Thánh
Giống như cá chép hóa rồng
Câu câu liên tục không dứt
Chữ chữ gương soi chẳng mờ
Muốn được thấy Phật liền thấy
Thôi bàn Tịnh độ–Ta bà.

KỆ KHUYÊN NIỆM PHẬT

Ở nơi ba cõi thôi cất bước
Đài sen chín phẩm thích nêu danh
Sau này buông tay về lối tắt
Mới tin không sinh–không chẳng sinh.
*
Lối tắt tu hành, duy niệm Phật
Sáu căn đều nhiếp, một tâm minh
Ta bà chuyển đổi thành An Dưỡng
Lửa rực, đầm trong, sen nở xinh.
*
Sinh–tử luân hồi không ngày dứt
Chuyên lòng niệm Phật hướng Tây phương
Mắt thấy Di Đà, nghe diệu pháp
Quả Bồ đề chín ngọt ngào hương.
*
Biển khổ rộng sâu vạn sóng trào
Nhiều đời chìm đắm biết làm sao?
Khuyên anh niệm Phật về An Dưỡng
Bờ kia cất bước thảnh thơi ca.
*
Ba cõi không an đừng lưu trú
Tây phương có lối hãy quay về
Một lòng không loạn, trì danh hiệu
Mỗi bước lửa hồng, sen nở hoa.
*
Cực lạc nơi lòng khác người xa
Hoa sen mỗi bước xuất hiện ra
Thanh tịnh, không nhiễm một trần nhỏ
Chớ hỏi ai là Phật Di Đà?
*
Khổ đau, bùi ngọt, không thế giới
Mờ mịt lăng xăng mộng thân–tâm
Chúng sinh cực khổ ai cứu độ?
Chỉ có Di Đà nguyện lực thâm.
*
Sinh–tử, tử–sinh bao giờ dứt
Trôi nổi lênh đênh lúc nào dừng
Chẳng hay niệm Phật về quê cũ
Biển khổ thoát ra mới thật mừng.
*

Người chuyên niệm Phật, tâm thanh tịnh
Tịnh tâm niệm Phật, thân không bệnh
Chư Phật hoan hỷ giáng kiết tường
Gốc đạo vững chắc thường tinh tấn.
*
Người niệm Phật rồi, chán ngũ trược
Trôi nổi, đắm chìm không sao vượt
Tâm tâm luôn hướng cõi Tây phương
Người đi đường này sẽ đến được.
*
Người siêng niệm Phật ắt thành Phật
Thoát khỏi thai phàm đổi Thánh chất
Đất báu, hoa sen được hóa sinh
Trong ao tám đức thường tắm gội.
*
Người niệm Phật nhiều, dứt tham sân
Thấu rõ thân thế tựa phù vân
Không lưu, chẳng luyến, đâu ràng buộc
Tiêu diêu tự tại hợp Thiên chân.
*
Người luôn niệm Phật chí kiên cố
Tám gió khó động, Tu di vững
Nhà lửa ba cõi rực nơi nơi
Mỗi bước đạp trên vô sinh lộ.
*
Trong tâm niệm Phật, cảnh Phật hiện
Muôn pháp đều do tâm chuyển biến
Tâm này là Phật, không chi khác
Ví tợ soi gương thấy mặt mình.
*
Người trì niệm Phật nhiếp sáu căn
Không theo trần cảnh vọng lăng xăng
Tịnh niệm tiếp nối như chuỗi ngọc
Ngày đêm liên tục không cách ngăn.
*
Người niệm Phật hiệu rất tôn quí
Cùng chung ở với thượng thiện nhân
Chẳng phân nam–nữ, hiền–ngu nữa
Thấy được Di Đà, lên Bất thối.
Tánh Chân như vốn có
Chúng sinh với Phật đồng
Rỗng rang tâm tự ngộ
Như nhật chiếu trời trong.
Di Đà sức đại nguyện
Tin sâu chớ nghi ngờ
Nương theo Phật tu hành
Chắc chắn chứng Phật quả.
Mã Minh và Long Thọ
Quả thật là thầy ta
Thiền–Tịnh viên tu chứng
Đâu nhọc tìm lối khác.
Rất chán khổ Ta bà
Lo đời sau lầm lạc
Một lòng siêng niệm Phật
Gởi chất Bạch Liên hoa.
Lòng tin thường không thối
Phát nguyện mãi đời đời
Nhân duyên Bát nhã chín
Quả Bồ đề tự thành.
Toàn nhờ sức Bát nhã
Soi thấu tâm thế gian
Tâm tịnh, cõi Phật tịnh
Di Đà hạnh nguyện sâu.
Sinh–tử có lo sợ
Nên nương công đức Phâït
Ngay đây thấy Di Đà
Cần gì hỏi Di Lặc.

KHEN NGỢI BA VỊ THÁNH TÂY PHƯƠNG

Cúi lạy Tây phương Vô Lượng Thọ
Xa với tay vàng tiếp Ta bà
Chúng sinh độ hết mới dừng nghỉ
Mấy kẻ biết ơn thoát ái hà.
Cúi lạy Tây phương Quán Thế Âm
Độ sinh bi nguyện thật rộng sâu
Đem giọt nước Cam lồ trong mát
Lắng dịu lòng nóng bức thế gian.
Cúi lạy Tây phương Đại Thế Chí
Trên đảnh bình báu phóng quang minh
Dẫn người niệm Phật về Tịnh độ
Liền ngộ không sinh, không chẳng sinh.