Ngay từ buổi đầu giáo đoàn mới thành lập, Đức Phật đã dạy: “Hãy ra đi, các Tỳ-kheo, đem sự tốt đẹp lại cho nhiều người, đem hạnh phúc đến cho nhiều người.
Vì lòng từ bi, hãy đem sự tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc cho chư Thiên và nhân loại” (Đức Phật và Phật pháp – Nàrada, Phạm Kim Khánh dịch). Đây được xem là thông điệp của lòng từ bi cứu khổ ban vui.
Ngày nay chư Tăng và hàng Phật tử tại gia là những người thừa hành, kế tục sự nghiệp độ sinh của Đức Phật vẫn luôn ghi nhớ và thực hành thông điệp từ bi đó.
Về tự lợi, kinh Tăng chi bộ, Đức Phật dạy: “Người có bố thí, khi được làm một vị trời hoặc được làm người đều vượt qua người không bố thí trên năm phương diện, đó là thọ mạng, nhan sắc, an lạc, danh xưng, tăng thượng” (chương V, phẩm Sumanà); và “Có người bố thí với tâm không mong cầu, bố thí với tâm không trói buộc, bố thí không với ý nghĩ “ta sẽ hưởng thọ cái này ở đời sau”, chỉ bố thí với ý nghĩ “lành thay sự bố thí”.
Vị ấy bố thí để trang nghiêm tâm. Do bố thí như vậy, sau khi thân hoại mạng chung, được sinh cộng trú với chư Thiên ở cõi trời Phạm chúng. Khi nghiệp lực đoạn tận, thần lực, danh tiếng và uy quyền đoạn tận, vị ấy trở thành vị Bất lai, không trở lui trạng thái này” (chương VII, phẩm Tế đàn).
Từ đó cho thấy, pháp bố thí mang lại cả phước báo hữu lậu và vô lậu. Nếu bố thí với tâm chấp thủ thì được phước báo hữu lậu. Nếu bố thí với tâm vô cầu, vô trụ chấp thì được phước báo vô lậu.
Giáo lý Phật giáo Bắc truyền xem bố thí là một trong sáu hạnh căn bản không thể thiếu của người tu Bồ-tát đạo (Lục độ hay Lục ba-la-mật).
Kinh Hoa nghiêm nói: “Bồ-tát là nhà đại thí chủ, có bao nhiêu của cải bình đẳng thí cho chúng sinh mà không hối tiếc, chẳng mong quả báo, chẳng cầu danh vọng, chẳng cầu sinh về chỗ tốt hơn, chẳng cầu lợi dưỡng.
Bồ-tát chỉ muốn cứu độ tất cả chúng sinh, muốn mang lại lợi ích cho chúng sinh, muốn học theo bổn hạnh của các Đức Phật, muốn thọ trì bổn hạnh của các Đức Phật và muốn khiến tất cả chúng sinh lìa tất cả khổ, được vui rốt ráo”.
Về phương diện cá nhân: Bố thí là gieo nhân duyên lành để tạo quả phúc cho hiện tại và tương lai. Kinh Tăng chi bộ II, Đức Phật dạy: “Có năm lợi ích của bố thí: được nhiều người ưa thích, mến mộ; được thiên nhân và các bậc chân nhân thân cận; tiếng đồn tốt đẹp được truyền đi; không có sai lệch pháp của người gia chủ; khi thân hoại mạng chung được sinh lên cõi lành, thiên giới”.
Kinh Phân biệt nghiệp báo cũng dạy: “Thường vui tu trí tuệ mà chẳng tu bố thí, đời sau được thông minh nhưng nghèo túng không của cải; chỉ vui tu bố thí mà chẳng tu trí tuệ, đời sau được giàu sang nhưng chẳng biết gì; Bố thí và trí tuệ đều song tu, đời sau giàu sang lại có trí tuệ. Cả bố thí và trí tuệ đều chẳng tu, nhiều kiếp ngu si lại nghèo khó”.
Bố thí là một phương tiện thực hành hạnh xả ly, chuyển hóa tâm tham lam, vị kỷ để dần dần đạt đến tinh thần vô ngã. Nếu thực hành bố thí đúng pháp như Đức Phật đã dạy, người tu học Phật sẽ thực chứng vô ngã.
Từ thiện, bố thí là pháp tu nhằm nuôi dưỡng và phát triển lòng từ bi, nền tảng căn bản của Bồ-tát đạo. Hành giả tu học Phật hướng đến giác ngộ, giải thoát, thành tựu đạo quả Vô thượng Bồ-đề phải trải qua quá trình hành Bồ-tát đạo trong đó có việc cứu độ chúng sinh.
Những câu chuyện về tiền thân Đức Phật được ghi lại trong kinh Bổn sinh (Jàtaka) cho biết, trong vô lượng kiếp khi còn hành Bồ-tát đạo, Đức Phật đã dấn thân phụng sự đạo pháp và chúng sinh, từng bố thí tài sản, sự nghiệp, vợ con, thậm chí cả thân mạng để làm lợi ích cho chúng sinh.
Đức Phật dạy trong kinh Niết-bàn như sau: “Đại từ đại bi gọi là Phật tánh. Từ tức Như Lai, Như Lai tức từ”. Tâm từ bi là tâm Phật, vậy muốn trở thành Phật không thể không có tâm từ bi.
Hành động từ thiện, bố thí cứu khổ ban vui tạo nhân duyên lành với tất cả chúng sinh, cởi mở mọi oán kết trong hiện đời và vô lượng kiếp quá khứ, từ đó có được nhân duyên hóa độ làm lợi lạc mọi loài.
Ngay cả Đức Phật cũng không thể hóa độ người không có nhân duyên với Ngài (Phật hóa hữu duyên nhơn), vì thế việc “quảng kết thiện duyên” thông qua các việc làm từ thiện, tài thí, pháp thí và vô úy thí mang ý nghĩa hết sức quan trọng.
Luận Đại trượng phu viết: “Đem của bố thí làm cho chúng sinh mến, đem pháp bố thí thường được thế gian kính trọng.
Thí của được kẻ ngu mến, thí pháp được người trí trọng, thí của phá trừ cái nghèo cùng về của, thí pháp phá trừ cái nghèo cùng về công đức.
Hai món thí này ai chẳng kính trọng. Cho của là cho vui hiện tại, cho pháp là cho vui Niết-bàn tương lai”. Lời dạy này cho thấy việc hành thiện, bố thí bao hàm cả ý nghĩa tự lợi và lợi tha.
Bố thí cũng là một trong bốn pháp để thu phục nhân tâm, chung sống hài hòa trong gia đình cũng như trong Tăng chúng và trong xã hội. Tăng Chi Bộ, Chương 4 Pháp, có ghi lại lời khuyên của Đức Phật như sau:
– Này các Tỳ-khưu, có bốn nhiếp pháp này. Thế nào là bốn?
“Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành và đồng sự
Hỡi các vị Tỳ-khưu,
Ðây là bốn nhiếp pháp.
Bố thí và ái ngữ,
Lợi hành và đồng sự,
Ðối với những pháp này,
Ở đời đối xử nhau,
Chỗ này và chỗ kia,
Như vậy thật tương xứng.
Và bốn nhiếp pháp này,
Như đỉnh đầu trục xe,
Nếu thiếu nhiếp pháp này,
Thời cả mẹ lẫn cha
Không được các người con
Tôn trọng và cung kính..
Do vậy bậc Hiền trí,
Ðồng đẳng nhìn nhiếp pháp
Nhờ vậy họ đạt được,
Sự cao lớn, tán thán.”
Năm công đức tùy thời bố thí
1.Tiếng tốt đồn xa,
2.Đến các hội chúng không sợ hãi,
3.Được mọi người kính nể,
4.Sau khi mạng chung được sinh trời, người hưởng phước,
5.Thành tựu trí tuệ, thân hiện đời dứt hết lậu, không trải qua đời sau – cho thấy, chỉ cần siêng năng bố thí có thể thành tựu vô lượng công đức, phước báo.
Quả phước bố thí hiện đời an lạc, công đức lành đầy đủ, tương lai chắc chắn được tái sinh hưởng phước trong trời, người. Nếu khéo bố thí với trí tuệ, xả tâm thanh tịnh thì có thể “đắc tam-muội, ý cũng không lầm lẫn, như thật mà biết, hiện đời dứt hết lậu, không trải qua đời sau”.