Phiên âm:
Giang nguyệt chiếu, tòng phong xuy
Vĩnh dạ thanh tiêu hà sở vi
Phật tánh giới châu tâm địa ấn
Vụ lộ vân hà thế thượng y
Dịch nghĩa:
* Trăng vằng vặc, lung linh vờn đáy nước
Gió ngọn tùng, nghe như cật vấn lương tri
Cảnh đêm thanh, trăng sáng: Đã làm gì ?
Rằng, Phật tánh, giới châu tôi in sâu vào tâm địa
* Tôi lấy cả ráng, mây, làm màu áo
Lấy mù mai, sương sớm để làm màn
Vui trăng sông, tùng núi, gió vi vu
Ôm Phật tánh, giới châu làm bạn đường chung chăn gối !
TRỰC CHỈ
Cái thấy của người chứng đạo đối với việc “tu hành” nhẹ nhàng, cởi mở, tự tại mà hiệu quả rất cao. Người chứng đạo họ có giải thoát thực sự, họ có giác ngộ chân lý thật sự, vì vậy không có gì ràng buộc được thân tâm con người chứng đạo. Dưới mắt của người chứng đạo, vạn pháp đồng nhất thể.
Tùy duyên biến hiện mà dáng vẻ hình hài có sai khác đó thôi. Tất cả đều cùng chung một tự tánh thanh tịnh bản nhiên của tự nó. Từ nhận thức chân lý đó, cho nên vấn đề gọi là TU HÀNH chẳng có gì cực khổ khó khăn.
- Van xin, cầu nguyện. Không cần
- Lạy ngũ bách danh, tam thiên Phật. Không cần
- Tụng kinh, tay chuông, tay mõ, ngày sáu thời. Không cần
- Tay lần chuỗi, miệng niệm danh hiệu Phật suốt ngày. Không cần
Vậy người đạo sĩ, cần gì?
-Cần vững CHÁNH NIỆM. Có chánh niệm là có tất cả. Có chánh niệm người đạo sĩ sẽ không rời Phật tánh.
Luôn luôn tỉnh thức sống bằng Phật tánh, đương nhiên có “giới châu”, có “tuệ châu”. Giới, định, tuệ mà in sâu vào tâm địa thì còn cái gì ràng buộc được, lý do nào làm cho hành giả “bận lòng”!.
Như vậy, người đạo sĩ:
“Tôi lấy cả ráng, mây, làm màu áo
Lấy mù mai, sương sớm để làm màn
Vui trăng sông, tùng núi, gió vi vu
Ôm Phật tánh, giới châu làm bạn đường chung chăn gối !”
Đó là việc có thật. Có thật, tuy nhiên:
“Duy chứng nãi tri, nan khả trắc…”