Núi Tu Di – Trung Quốc: một ngọn núi trong thần thoại cổ Ấn Độ

Núi Tu Di là tên của một ngọn núi trong truyền thuyết thần thoại cổ Ấn Độ, còn gọi là Tu Di Lâu, Mạn Đà La. Theo quan niệm Phật giáo, núi Tu Di là vua của các ngọn núi, là trung tâm của thế giới, là vũ trụ quan của Phật giáo.

núi tu di
Bảng đá giới thiệu “Hang động núi Tu Di”

Bởi Trung Quốc chịu ảnh hưởng Phật giáo rất sâu sắc, nên ở đây xin giới thiệu về núi Tu Di cùng tên tọa lạc tại khu tự trị dân tộc Hồi – Ninh Hạ:

Núi Tu Di là phong cảnh thắng địa có hơn 100 hang động. Tọa lạc ở phía bắc, cách núi Lục Bàn khoảng 320 km về hướng đông nam, thành phố Ngân Xuyên, bờ bắc ngạn, song Tứ Khẩu Tử khoảng 55 km hướng tây bắc, thành phố Cố Nguyên. Dãy núi này cao sừng sững đối diện với Quan Sơn, eo vịnh nhỏ mà hẹp, thác nước sâu mà hiểm, núi non kỳ vĩ.

Sông Tứ Khẩu Tử
Sông Tứ Khẩu Tử

Thời cổ, sông Tứ Khẩu Tử phía dưới núi được gọi là Thạch Môn Thủy, thiết kế con đường trên sông gọi là Thạch Môn Quan, và nó đã trở thành đường hầm quan trọng cho con đường tơ lụa.

Con đường này cũng là biện pháp trọng yếu để phòng ngừa về chiến tranh, và con đường này cũng là để nối tình bang giao hữu hảo giữa vương triều nhà Hán Trung Nguyên, với các dân tộc thiểu số miền Tây vực.

Đương nhiên ngày nay vị trí của Thạch Môn Quan không còn, nhưng những hang động được phân bố trên các sườn núi vẫn toát ra luồng ánh sáng nghệ thuật rạng rỡ.

Núi Tu Di - Hang động thứ 5
Núi Tu Di – Hang động thứ 5

Đại Phật đơn thể với quy mô lớn nhất,xây dựng vào đời Đường, cao 20.6m

Những pho tượng trong các hang động trên núi Tu Di này, thì hang động thứ năm có một số tượng Phật được kiến tạo vào đời nhà Đường. Trong hang động có điêu khắc tượng Đại Phật tọa thiền cao 20.6m, thần thái an nhiên, khí vũ siêu phàm. Địa thế nơi đây rộng rãi bao la, có thể nhìn bao quát từ xa.

Đứng tựa vào dãy hành lang trước Đại Phật, đưa mắt hướng vọng về nơi cõi xa xưa, sông núi trên chiến trường thời cổ vẫn y như cũ, khiến cho con người thời nay càng vô cùng bùi ngùi với mối tư lương với tâm tình hoài cổ.

Khu du lịch Thạch Môn Quan
Khu du lịch Thạch Môn Quan

 

Hang động thứ 51 được khai thác vào thời Bắc Chu, còn gọi là “ánh sáng của Tu Di”, và đã được khai quật trong lòng một ngọn núi nhỏ, là cột mốc trung tâm lớn nhất của núi Tu Di. Tư thái của 7 tượng Phật cao hơn 6m trong hang động rất ưu mỹ, thủ pháp điêu khắc rất thuần thục, đại biểu cho nét đặc sắc của thời đại tươi sáng vào thời kỳ Bắc Chu.

Ngẫng nhìn chung quanh, từng sợi khói trắng quyện nhau từ trong hang động chầm chậm lan ra, giống như những sợi kim tuyến bàng bạc phản chiếu quanh các tượng điêu khắc trên bốn phía vách, khiến cho con người có cảm giác như đang lạc vào cảnh giới thần bí của thế giới Cực Lạc.

Những hang động này bắt đầu khai thác vào thời Bắc Ngụy, cách nay đã hơn 1400 năm. Trải qua thời gian lâu xa, bị mưa gió bào mòn, thêm vào đó nhiều trận động đất làm cho hư hoại .

Các triều đại Tây Ngụy, Bắc Chu, Tùy, Đường… vẫn không ngừng khai thác sửa đục tạc thêm, sau này vẫn còn tiếp tục sửa chữa, trùng tu, cho nên ngày nay mới hình thành 8 phong cảnh: Đại Phật Lục, Tử Tôn Cung, Viên Quang Tự, Tướng Quốc Tự, Đào Hoa Động, Tùng Thụ Oa, Tam Cá Quật, Hắc Thạch Câu…, tổng cộng có hơn 350 tôn tượng, nhiều nơi còn có bia đá, bích họa, đề kí…, là di sản văn hóa tôn giáo, là nơi nghiên cứu về nghệ thuật khai quật hang động TQ từ thời Bắc Ngụy đến nay.

Núi Lục Bàn
Núi Lục Bàn

Các hang động núi Tu Di từ thời Bắc Ngụy đến Tùy Đường (386-534) không ngừng khai khác, sửa chữa, tô đắp Phật tượng, và đã phản ánh phong cách qua nhiều thời đại đều không đồng nhất.

Tượng Phật hang động thời Bắc Ngụy, được nặn đắp với sống mũi cao rộng, giữ nguyên phong mạo Phật giáo Ấn Độ. Có những bức tượng mặt thỏn vai trượt, áo dài tay rộng, rất giống hình tượng nghệ thuật trên bức tranh cuộn “Lạc Thần Phú” của họa sư Cố khải Chi thời Đông Tấn.

Tượng Phật đời Tùy thì mình dài, chi dưới ngắn, mặt tròn, cổ lùn, hình tượng chất phác không sinh động. Xu hướng tạo hình tượng Phật đời Đường thì tương đối hoàn mỹ hơn, tư thái phúc hậu, dáng vẻ đẫy đà, phục trang xinh đẹp rực rỡ, biểu hiện đầy đủ khí chất phi phàm của nghệ thuật đời Đường.

Hang động núi Tu Di không giống như Đôn Hoàng, Vân Phong và Long Môn. Các động đá hầu như đều được khai thác trên vách núi của Lâm Xuyên, chỉ cần nhìn vào là thấy được tất cả. Tùy vào sự thay đổi của thế núi, khi thì sừng sững nguy nga, khi thì bao trùm luôn cả những chỗ trủng thấp, đông tây trên dưới, như ẩn như hiện, biến hóa phong phú, một nét đẹp hùng vĩ bao la, khiến mọi người một khi đến viếng cảnh rồi thì khó có thể quên được.

Các hang động núi Tu Di còn lưu lại rất nhiều bi ký, đề ký của các triều đại như Đường, Tống, Tây Hạ… Những đề ký này là tư liệu nghiên cứu quý báu về mặt xã hội đương thời.

núi tu di

Giang Nam vào lúc tháng 4, cây cỏ xinh tươi, chim muông hội tụ. Còn mùa xuân của núi Tu Di tuy đến hơi chậm, nhưng cảnh xuân lại trêu người. Đứng dưới núi nhìn ra xa, giữa những ngọn núi cao mà hiểm, thấp mà mộc mạc, từng khóm, từng khóm hoa đào nở rộ, từng mảng, từng mảng cây cỏ xanh biếc, mang đến cho dãy núi màu vàng đất một sức sống mãnh liệt. Nơi đây tuy thiếu kém nét thanh tú và cái mềm mại đáng yêu của mùa xuân sớm ở Giang Nam, nhưng lại có đủ cái hào phóng và sự kiên cường đặc biệt của phương bắc, khiến cho mọi người như thể hội được một loại ý vị khác.

Từ cổng lớn, cái nhìn đầu tiên có thể thấy nơi tôn trí của Đại Phật
Từ cổng lớn, cái nhìn đầu tiên có thể thấy nơi tôn trí của Đại Phật
Đại Phật núi Tu Di - động thứ nhất
Đại Phật núi Tu Di – động thứ nhất

Các hang động núi Tu Di từ thời Bắc Ngụy đến Tùy Đường (386-534) không ngừng khai khác, đã phản ánh phong cách nhiều thời đại không đồng nhất. Tượng Phật hang động thời Bắc Ngụy, sống mũi cao rộng, giữ nguyên phong mạo Phật giáo Ấn Độ.

Có những bức tượng gương mặt thỏn vai trượt, áo dài tay rộng, rất giống hình tượng nghệ thuật trên bức tranh cuộn “Lạc Thần Phú” của họa sư Cố khải Chi thời Đông Tấn.

Tượng Phật đời Tùy thì mình dài, chi dưới ngắn, mặt tròn, cổ lùn, hình tượng chất phác không sinh động. Xu hướng tạo hình tượng Phật đời Đường thì tương đối hoàn mỹ hơn, tư thái phúc hậu, dáng vẻ đẫy đà, phục trang xinh đẹp rực rỡ, biểu hiện đầy đủ khí chất phi phàm của nghệ thuật đời Đường.

Núi Tu Di
Thạch Môn Thủy

Toàn quả núi Tu Di đều là hang động, có những hang động đã phát hiện, hoặc có những cái chưa phát hiện

Tại Trung Quốc, núi Tu Di không những nổi tiếng ở Ngân Xuyên, mà nó còn là một cảnh quan nổi tiếng nhất của các tự viện Hoàng Giáo Lạt Ma Giáo tại Bắc Kinh (Hoàng Giáo là một hệ phái của Lạt Ma Giáo Tây Tạng, hưng khởi vào đầu thể kỷ 15). Giáo nghĩa Phật giáo cho rằng, tiểu thiên thế giới phân làm ba bộ phận thượng, trung và hạ, tức là Phong luân, Thủy luân và Kim luân. Núi Tu Di trong đây có Kim luân. Kim luân là mặt đất, trên đất có chín núi tám biển, là nơi sinh sống của toàn nhân loại. Lại có bốn phương đông, tây, nam, bắc, mỗi phương đều có một tòa cung điện, biểu thị cho Tứ Đại Bộ Châu: Đông Thắng Thần Châu, Nam Thiệm Bộ Châu, Tây Ngưu Hạ Châu, Bắc Câu Lô Châu. Trên Tứ Đại Bộ Châu lại đầy dẫy các vì tinh tú, thiên văn được phân bố khắp vũ trụ, bộ đỉnh của các vì sao ấy có một tiểu Đàn Thành rất đặc biệt kì lạ (Đàn Thành: lãnh thổ của một quốc gia hoặc là đàn cúng tế), đây là thánh địa cư trú của trời Đế Thích, tức là Thiên Đường.

Thạch Môn Thủy

Đức Phật A Di Đà – Hang động thứ 3 Sơ Đường (TL 618-741)

 

Hang động thứ 6 – Thích Ca, Văn Thù và Duy Ma Cật, Bắc Ngụy (TL  471-494)

Hang động thứ 7 – Cúng dường chư Thiên

Hang động thứ 8
Hang động thứ 8
Hang động thứ 9
Hang động thứ 9

Núi Tu Di – Hang động thứ 9, 10, từ năm đầu Bắc Ngụy niên hiệu Diên Hưng đến năm thứ 18 Thái Hòa (TL  471-494)

 

Khe rảnh nằm ở phía trước núi Tu Di, rất có đặc điểm

Cổng hang động núi Tu Di hơi nhỏ
Cổng hang động núi Tu Di hơi nhỏ

 

Cổng hang động núi Tu Di hơi nhỏ, cảm thấy các loại thi công đều chưa hoàn thành

Người xưa thật là vĩ đại, tu sửa nơi đây, cũng không biết hao phí bao nhiêu thời gian!

Điều mà mọi người cho là “hoa rừng rực rỡ”, lại rất ít có khả năng tìm được hoa trên ngọn núi Tu Di này. Một khi đã phát hiện, thì không còn gì sung sướng hơn!

Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di Núi Tu Di