NỀN TẢNG PHẬT TRIẾT TRONG LUẬN TẠNG PALI

nền tảng phật triết pali

Trong 45 năm truyền Đạo, đức Phật đã giaœng dạy biết bao nhiêu điều quý báu. Giáo lý của Ngài đã được truyền tụng khắp Đông Phương trên 20 thế kỷ, bây giờ càng ngày càng lan rộng mạnh mẽ sang Tây Phương. Ngay sinh thời cuœa đức Phật, các môn đệ cuả ngài đã nghĩ tới việc ghi lại những lời thuyết giaœng đó. Ý nguyện này đã trơœ thành thực tế vài tháng sau khi đức Phật nhập Niết Bàn. Những giáo lý cuœa Ngài được chia thành Tam Tạng (Ti-Pitaka): Giới Tạng (Vinaya Pita), Kinh Tạng (Sutta Pitaka) và Luận Tạng (Abhidhamma Pitaka). Cũng trong thời gian đức Phật còn tại thế, những lời giảng của Ngài đã có một số người hiểu và giaœi thích một cách khác nhau. Những lời giảng dạy chân thật cuœa đức Phật được trùng tụng và được đúc kết trong Kết Tập Hội. Sau lần kết tập thứ 3, toàn bộ Luận Tạng Pali được chính thức đúc kết, gồm 7 bộ, trong đó bộ Katha-Vatthu do Ngài Moggaliqutta-Tissa (Pali), Maudgaliputra-Tisya (Sanskrit) (Mục Kiền Liên Tưœ Đế Tu) soạn, dựa vào cái “cốt” cuœa đức Phật.

Abhidhamma Pitaka (Pali) — A Tỳ Đàm Luận Tạng; hay Abhidharma Pitaka (Sanskrit) — A Tỳ Đạt Ma Luận Tạng: luận về các vấn đề triết lý, tâm lý, đạo đức, siêu hình mà đức Phật nói trong các kinh. Kinh dùng ngôn ngữ thông thường, Luận dùng ngôn ngữ cuœa triết học, trừu tượng, khó hiểu. Luận Tạng là cốt tuœy cuœa Phật Triết. Luận tạng khó hiểu, rất trừu tượng và rất khô khan. Vì thế ít người chịu nghiên cứu. Ta hãy lấy một thí dụ: người ta thích nhìn cái bàn, cái ghế, cái tuœ, … hơn là “luận” về chất gỗ. “Gỗ” là Luận, cái bàn, cái ghế, tuœ… là Kinh. Bơi thuyền trên mặt hồ rất thơ mộng, ai cũng ưa thích, nhưng ít ai muốn lặn xuống đáy hồ để tìm kho báu vật. Bơi thuyền trên mặt hồ là nghiên cứu Kinh, lặn xuống đáy hồ là đi tìm cái Luận. Rong chơi bên bờ rừng với hoa, lá muôn màu bao giờ cũng thích thú hơn là băng qua một sa mạc nóng cháy. Trì tụng kinh với những ngôn ngữ mỹ miều thấy thích thú như dạo mát bên cánh rừng hơn là ngồi nghiên cứu, suy ngẫm bạc đầu về những triết lý cao thâm, vi diệu trong Luận Tạng.

Vài học giaœ Tây Phương khi nghiên cứu Luận Tạng phaœi thốt ra câu “Luận Tạng là một thung lũng chứa đầy những đống xương khô” (valley of dry bones). Mỗi bộ kinh chỉ nói lên một phần cuœa toàn bộ Phật Triết. Nghiên cứu Luận Tạng là đi tìm toàn diện cốt tuœy triết lý cao thâm, vi diệu cuœa đức Phật. Đối với hầu hết những nhà nghiên cứu Phật học người Việt, Luận Tạng Pali là những bộ luận còn xa lạ. Hầu hết kinh sách viết về Phật giáo cuœa ta được dịch từ Hán ngữ. Kinh điển Hán ngữ hầu hết dịch từ kinh điển Sanskrit.

A Tỳ Đàm Luận và A Tỳ Đạt Ma Luận

Abhidhamma Pitaka (A Tỳ Đàm Luận Tạng) được đúc kết sau lần kết tập thứ 3. Nguyên baœn viết bằng tiếng Pali được lưu trữ nguyên vẹn tại Tích Lan, như một đồ quốc baœo. Mahinda (con vua Asoka) và một số cao tăng mang Tam Tạng Kinh đến Tích Lan, được vua đón nhận. Mỗi buổi sáng trước khi bàn việc nước, vua đọc rồi dịch Luận Tạng sang tiếng Tích Lan, Abhidhamma Pitaka (A Tỳ Đàm Luận Tạng) gồm 7 cuốn:

1. Dhamma-Sangani (Pháp Tụ Luận): luận về sự “tụ” cuœa các pháp. Pháp Tụ dùng như một danh từ riêng để gọi cái Pháp Tánh, Chân Như, Phật Tánh ơœ thế gian, cái Diệu Lý cuœa Chân Như vẫn ơœ trong các pháp, hằng trụ nơi mọi vật. Vì thế gọi là pháp tụ. Dhamma-sangani mơœ đầu bằng phần Màtikà (khuôn cối, ma trận) liệt kê 1,366 pháp, dựng một cái khung cho toàn thể 7 bộ luận. Nữ học giaœ Anh Quốc C.A.F. Rhys Davids (hiền thê cuœa giáo sư Rhys Davids) dịch sang Anh Ngữ, A Buddhist Manual of Psychological Ethics, The Pali Text Society xuất baœn năm 1900, 1923, 1974, và 1993 tại Luân Đôn. (Nếu dựa vào nội dung cuœa bộ luận này, Psychological Ethics phaœi dịch là Ethical Psychology mới chính xác).

2. Vibhanga (Phân Biệt Luận): luận về các pháp, bổ túc cho bộ Pháp Tụ Luận (Dhamma-sangani) và tạo nền móng cho bộ Giới Thuyết Luận (Dhàtu-Kathà). Bộ này luận về Ngũ Uẩn (Khanda), Thập Nhị Xứ (Ayatana), Thập Bát Giới (Dhàtu), gồm 28 chương. Hòa Thượng U. Thittila dịch sang Anh Ngữ, The Book of Analysis, The Pali Text Society xuất baœn năm 1978 tại Luân Đôn.

3. Dhàtu-Kathà (Giới Thuyết Luận, hay Đại Thuyết Luận): luận kỹ thêm về Uẩn Xứ và Giới, gồm 14 chương (phẩm) chứa vài trăm câu hoœi và traœ lời về uẩn, xứ và giới. Bộ luận này có thể nói là một siêu tác phẩm về tâm lý học chưa từng có trong văn minh cuœa caœ nhân loại. Tâm lý con người được cheœ ra từng miếng nhoœ, phân tích tyœ myœ, từ đó đưa ra một tu đạo. Hòa Thượng U. Nàrada dịch sang Anh ngữ, Discourses on Elements, The Pali Text Society xuất baœn năm 1962 và 1977 tại Luân Đôn. Điểm đáng chú ý, dịch giaœ diễn taœ sự rất khó hiểu cuœa Uẩn, Xứ và Giới qua các đồ biểu, để giúp cho việc nghiên cứu được dễ dàng hơn.

4. Puggalapannati (Nhân Thi Thuyết Luận): luận bàn và phân biệt giữa giới xuất gia và tại gia, gồm 10 phẩm. Luận về 142 loại người khác nhau. Đây là bộ luận ngắn nhất trong 7 bộ luận cuœa Luận Tạng Pali. Qua bộ luận này ta mới thấy đức Phật hiểu rất rõ từng loại người trong thế gian qua sự phân loại tinh vi. Giáo sư Phật học B.C. Law dịch sang Anh ngữ, Designation of Human Types, The Pali Text Society xuất baœn năm 1972 tại Luân Đôn.

5. Kathà-Vatthu (Thuyết Sự Luận, hay Biện Giaœi Luận): bộ luận này do Ngài Moggaliputta-Tissa (Pali), hay Maudgaliputra-Tisya (Sanskrit)-Mục Kiền Liên Tưœ Đế Tu tụng trong lần kết tập thứ ba do vua Asoka triệu tập (khoaœng 218 sau khi Phật nhập Niết Bàn), khi có sự phân chia các hệ phái. Mặc dù bộ Kathà-Vatthu do Ngài Moggaliputta-Tissa soạn, nhưng dựa vào cái “cốt” do đức Phật nói. Lúc sinh thời, đức Phật đã tiên đoán có sự phân chia nên Ngài đã “phá” những tư tươœng sai quấy do một nhóm đệ tưœ hiểu và giaœi thích lời giaœng cuœa Ngài một cách khác nhau và sai lạc. Bộ Kathà-Vatthu đưa ra 219 câu hoœi và traœ lời cho những đệ tưœ không quán triệt được ý nghĩa lời thuyết giaœng cuœa Ngài. Nội dung được xếp thành 3 loại: thứ tự kinh điển, đề tài tranh luận và hệ phái có tư tươœng khác biệt. Ngài Trươœng Lão Moggaliputta-Tissa (Pali), Maudgaliputra-Tisya (Sanskrit) chỉ soạn lại cho lớp lang bộ luận này và trùng tụng trong lần kết tập thứ ba, dựa vào những lời giaœng dạy chân thật cuœa đức Phật. Hai học giaœ S.Z. Aung và C.A.F. Rhys Davids dịch sang Anh ngữ, Points of Controversy, The Pali Text Society xuất baœn năm 1915, 1960, 1969, 1979 tại Luân Đôn.

6. Yamaka (Song Đối Luận, Song Luận): đưa ra những câu hoœi và traœ lời đóng thành từng cặp đôi. Vì vậy mới có tên là Song Đối Luận. Bộ luận này gồm 10 phẩm xoay quanh Thiện Căn (Kusala), Bất Thiện Căn (Akusala), Ngũ Uẩn, Thập Nhị Xứ, và Thập Bát Giới, Hành (Sankhàra), Tứ Diệu Đế (Sacca), Tùy Miên (Anusaya), Tâm Vương (Citta), Pháp (Dhamma), Căn (Indriya). Bộ này đưa hàng loạt những câu hoœi xác định và phuœ định, và câu traœ lời về những pháp nói trên. Bộ này áp dụng phương pháp luận lý thực hành như bộ Kathà-Vatthu (Thuyết Sự Luận). Rất tiếc đây là bộ luận chưa hề được dịch sang Anh ngữ, tuy nhiên những nhà nghiên cứu vẫn có thể tạm hiểu được nếu đọc Pali Text Society Journal xuất baœn năm 1912 có bài bình giaœi bộ luận này, dưới tiêu đề Book of Pairs.

7. Patthàna (Phát Thú Luận, hay Nhân Duyên Thuyết Luận): bộ luận dài nhất, vĩ đại nhất và quan trọng nhất trong số 7 bộ luận cuœa A Tỳ Đàm Luận Tạng (Abdidhamma Pitaka). Bộ luận dài gần bằng 6 bộ luận nói trên kết hợp lại. Bộ Dhamma-Sangani (Pháp Tụ Luận) và Patthàna (Pháp Thú Luận) là cái xương sống cuœa toàn bộ Phật Triết trong Luận Tạng Pali. Bộ luận này nói về sự tương quan sinh khơœi giữa các pháp. Nếu ví toàn bộ Luận Tạng là một ngôi đại tự thì Patthàna (Phát Thú Luận) là cái nền móng, Dhamma-Sangani (Pháp Tụ Luận) là cái khung còn những bộ luận khác là cột, tường, mái nhà,… Bộ luận này gồm 6 quyển, mỗi quyển lại chia làm 4 phần. Hòa Thượng U. Nàrada dịch sang Anh ngữ, Conditional Relations, The Pali Text Society xuất baœn năm 1988 tại Luân Đôn. Duyên khơœi luận là trọng điểm cuœa Phật Triết. Muốn tìm hiểu triết lý Phật giáo không thể boœ quên bộ luận này. Nói cách khác, một người muốn gioœi bất cứ thể nhạc nào, nhạc cụ nào (cổ điển, dân ca, dương cầm, vĩ cầm,… ) không thể không học nhạc lý. Bộ Patthàna (Phát Thú Luận) là “nhạc lý; 7 bộ luận là 7 nốt nhạc.

Song song với 7 bộ luận Abhidhamma, A Tỳ Đàm Luận, cuœa phái Theravada (Thượng Tọa Bộ) viết bằng Pali (được công nhận sau 3 lần kết tập là những lời giaœng dạy chân thật cuœa đức Phật), phái Sarvastivada (Nhất Thiết Hữu Bộ hay Hữu Bộ) cũng đưa ra 7 bộ luận Abhidharma, A Tỳ Đạt Ma Luận, viết bằng tiếng Sanskrit. Sau đây là baœng đối chiếu:

1. Dhamma-Sangani-Pháp Trụ Luận (Pali, Theravada);

Sangiti-pariyaya-pada hay Sangitipataya-bada-Tạp Dị Môn Túc Luận (Sanskrit Sarvastivada), do Ngài Mahakauthila (Đại Câu Thi La) soạn.

2. Vibhanga-Phân Biệt Luận (Pali, Theravada);

Dharmaskandha-pada-Pháp Uẩn Túc Luận (Sanskrit, Sarvastivada), do Ngài Saributra (Xá Lợi Phất: Sariputa) soạn.

3. Dhàtu-Kattha-Giới Thuyết Luận hay Đại Thuyết Luận (Pali, Theravada);

Dhàtukaya-pada hay Dhatukaya-bada-Giới Thân Túc Luận (Sanskrit, Sarvastivada), do Ngài Purna (Phú Lâu Na) soạn.

4. Puggalapannati-Nhân Thi Thuyết Luận (Pali, Theravada);

Prajnapatti-pada hay Prajnapatti-bada-Thi Thuyết Túc Luận (Sanskrit, Sarvartivada), do Ngài Maudgalyàyana (Sanskrit) hay Moggallàna (Pali) (Mục Kiền Liên) soạn.

5. Katha-Vatthu-Thuyết Sự Luận (Pali, Theravada);

Vijnana-pada hay Vijnanakaya-bada-Thức Thân Túc Luận (Sanskrit, Sarvastivada), do Ngài Devasarma (Đề Bà Thiết Na) soạn.

6. Yamaka-Song Đối Luận, Song Luận (Pali, Theravada);

Prakarana-pada-Phẩm Loại Túc Luận (Sanskrit, Sarvativada), do Ngài Vasumitra (Ngài Thế Hữu) soạn.

7. Patthàna-Phát Thú Luận (Pali, Theravada);

Jnana-Prasthana-Phát Trú Luận (Sanskrit, Sarvastida), do Ngài Katyayaniputra (Ka Đa Diễn Ni Tưœ) soạn.

Baœy bộ luận Abhidhamma (A Tỳ Đàm Luận) còn lưu trữ nguyên vẹn bằng tiếng Pali; 7 bộ luận Abhidharma (A Tỳ Đạt Ma Luận) được dịch từ Sanskrit sang Hán ngữ. Nguyên baœn Sanskrit bị thất lạc, baœn dịch sang Hán ngữ còn nguyên vẹn.

So Sánh Luận Pali và Luận Sanskrit

Chúng tôi cần góp thêm những điểm sau đây cho những nhà nghiên cứu Phật học:

(1) Bộ luận Sangiti-pariyaya-pada-Tạp Dị Môn Túc Luận (Sanskrit) giống bộ Dhamma-sangani-Pháp Tụ Luận (Pali);

(2) Bộ luận Dhàtu-caya-pada-Giới Thân Túc Luận (Sanskrit) giống bộ Dhàtu-Kathà-Giới Thuyết Luận (Pali);

(3) Bộ Prajnapatti-pada-Thi Thuyết Túc Luận (Sanskrit) giống bộ Puggala-Pannatti-Nhân Thi Thuyết Luận (Pali);

(4) Bộ Jnana-prasthana-Phát Trí Luận (Sanskrit) giống bộ Patthana-Phát Thú Luận (Pali).

(5) Bộ Dharma-skandha-pada-Pháp Uẩn Túc Luận (Sanskrit) có 14 trong số 21 phẩm giống 14 trong 18 phẩm cuœa bộ Vibhanga-Phân Biệt Luận (Pali). Nói cách khác, bộ luận Sanskrit có 7 phẩm hoàn toàn khác lạ với bộ luận Pali.

(6) Còn 2 bộ luận Sanskrit, Vijnana-pada-Thức Thân Túc Luận và Prakarana-pada-Phẩm Loại Túc Luận, hoàn toàn khác hẳn 2 bộ luận Pali là Kathà-Vatthu-Thuyết Dự Luận và Yamaka-Song Đối Luận.

Câu Xá Luận

Bộ Abhidharmakosha (A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận) do Ngài Vasubandhu (Thế Thân, Thiên Thân) soạn lại Kashmir vào thế kyœ thứ 5 sau công nguyên. Ngài Vasubandhu (thế kyœ thứ 4 hay 5 sau công nguyên) căn cứ vào bộ Vaiblashika (tên chung cuœa 2 bộ Mahaviblasha-Đại Tỳ Bà Sa và Viblasha-Tỳ Bà Sa) bình giaœng A Tỳ Đạt Ma Luận, soạn ra bộ luận Abhidharmakosha-A Tỳ Đạt Ma Câu Xá cuœa phái Sarvastivada-Nhất Thiết Hữu Bộ. Bộ luận này gồm 2 phần: phần đầu có 600 câu thơ (Abhidharmakosha-karika) và phần hai là phần bình giaœng bằng văn xuôi (Abhidharmakosha-bhashya). Nguyên bản Sanskrit đã thất lạc, chỉ còn bản dịch sang Hán ngữ và Tạng ngữ. A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận đánh dấu một giai đoạn chuyển tiếp tư tươœng từ Tiểu thừa sang Đại thừa. Trong bộ luận này, Vasubandhu luận về Tam Giới (Triloka), Nghiệp (Karma), Tùy Miên (Anusaya), Giaœi Thoát Đạo (Pudgala-Marga), Huệ (Jnana), Định/Tam Muội (Samadhi). Về phần Việt ngữ có hai cuốn sách có giá trị viết về Câu Xá Luận: (1) Câu Xá Luận Cương Yếu, HT. Thích Đức Niệm soạn, Phật Học Viện Quốc Tế xuất baœn năm 1985; và (2) Tư Tươœng A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, HT. Thích Mãn Giác soạn, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo VN tại Hoa Kỳ xuất baœn năm 1995.

Bình Giải Luận Tạng

Muốn hiểu rõ cái ý nghĩa thâm sâu của 7 bộ luận Pali, bất cứ nhà nghiên cứu nào cũng không thể boœ qua 7 tài liệu bình giải cho 7 bộ luận này.

(1) The Expositor, dịch giaœ Pe Maung, The Pali Text Society xuất bản năm 1920 và 1921, dùng cho bộ luận Dhamma-sangani.

(2) The Dispeller of Delusion, dịch giaœ Nanamoli, The Pali Text Society xuất baœn 1987 và 1991, dùng cho bộ luận Vibhanga.

(3) The Debates Commentary, dịch giả B.C. Law, The Pali Text Society xuất bản năm 1940 và 1989, dùng cho bộ luận Katha-Vatthu.

(4) Tạp chí Pali Text Society Journal số xuất bản năm 1884 có bài bình giảng cho bộ luận Puggalapannatti; số xuất bản năm 1912 có bài bình giảng cho bộ luận Yamaka (bộ luận chưa được dịch sang Anh ngữ).

(5) Các bộ luận Dhatu-Katha và Patthana đã được dịch sang Anh ngữ có kèm theo lời bình giaœng, nên không có sách bình giaœng.

(6) Ngoài ra có bộ bình giảng vô cùng giá trị mà chúng tôi đề nghị các nhà nghiên cứu nên tham cứu: Abhidhammattha-sangaha cuœa Anurudha, với 2 baœn dịch sang Anh ngữ: (1) Compemdium of Philosophy do the Pali Text Society xuất baœn năm 1910, 1956, 1963, 1972, và 1979. (2) Comprehensive Manual of Abhidhamma do Buddhist Publication Society xuất bản năm 1993. Hai baœn Anh ngữ có lối trình bày và chú giaœi khác nhau, nhưng đều có giá trị cao. Nếu đã đọc Abhidhamattha-sangaha không thể boœ quên 2 bộ luận Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) cuœa Buddhahosha và Vimuttimagga (Giaœi Thoát Đạo) cuœa Upatissa. Ngoài ra Nyanatiloka Mahathera (thế danh là Anton Gueth, 1878-1957, gốc người Đức) soạn cuốn A Guide Through The Abhidhamma-Pitaka, Buddhist Publication Society xuất baœn năm 1938, 1957, 1971, và 1983, giúp rất nhiều cho những học giaœ Tây Phương trên đường nghiên cứu Phật Triết. Hầu hết những học giả Tây Phương, khi nghiên cứu Luận Tạng, không thấu triệt thuyết Nhân Duyên, vì thế tác giaœ thêm phần phụ chú về Nhân Duyên vào cuối sách, để giúp nhà nghiên cứu hiểu rõ và không lầm lẫn.

Tới đây, Quý vị nào muốn nghiên cứu Luận Tạng Pali đã tạm có một số hành trang cần thiết để có thể bắt đầu đi tìm hiểu kho tàng triết học Tiểu thừa, một kho tàng triết học, tâm lý học và đạo đức học vĩ đại nhất trong văn học Pali.

Ngoài những sách chúng tôi vừa liệt kê và giới thiệu ở trên, Quý vị có thể tìm đọc rất nhiều những bộ sách quý về Luận Tạng Pali, mà khuôn khổ bài báo giới hạn, nên chúng tôi không thể đi thêm vào chi tiết những cuốn sách tham khảo khác.

Kết Luận

Phật giáo đã được phát triển tại Đông Phương từ trên 20 thế kyœ, nhưng trong vòng 200 năm vừa qua Tây Phương mới tìm hiểu và học hỏi Phật pháp. Mặc dù quá trình lịch sử phát triển Phật giáo không cho thấy những cuộc đổ máu như đã thấy trong lịch sử phát triển Ki Tô giáo cuœa Tây Phương trong những thế kyœ trước đây, nhưng người ta cũng thấy sự mâu thuẫn về mặt tư tươœng cuœa Tiểu thừa và Đại thừa. Đức Phật chuœ trương đi tìm giaœi thoát trong hòa bình (arana) và tránh mâu thuẫn (rana), Ngài đưa ra trung đạo, tiềm ẩn trong caœ hai ý nghĩa lý thuyết và thực hành. Trung đạo nằm giữa những cực điểm: giữa thuyết tuyệt đối (absolutism) và thuyết hư vô (nihilism) về mặt bản thể; giữa thuyết duy thực (realism) và thuyết duy danh (nominalism) về mặt ngôn ngữ.

Đọc bộ Visuddhimagga (Thanh Tịnh Đạo) cuœa Buddhagosha (Phật Âm) và Vimuttimagga (Giaœi Thoát Đạo Luận) cuœa Upatissa (Ưu Bà Tu Đế) người ta cùng nhìn thấy con đường tu đạo cao siêu cuœa Tiểu thừa. Bộ Visuddhimagga được học giaœ Pe Maung dịch sang Anh ngữ, The Path of Purity, The Pali Text Society xuất baœn năm 1923, 1929, 1931, và 1975; và cũng được Ngài Tỳ kheo Nànamoli dịch sang Anh ngữ, The Path of Purification, Buddhist Publication Society xuất baœn năm 1991. Bộ Vimuttimagga (Giaœi Thoát Đạo) được các Ngài N.R.M. Ehera, Soma Thera và Kheminda Thera dịch sang Anh ngữ từ Hán ngữ (nguyên baœn soạn bằng Pali), The Path of Freedom, Buddhist Publication Society xuất baœn năm 1977 và 1995 (ấn baœn đầu tiên ra mắt năm 1961).

Trong quá trình phát triển Phật giáo tại Việt Nam trong 18 thế kyœ vừa qua, nước ta chưa có toàn bộ Tam Tạng Kinh Điển như Tích Lan, Trung Hoa, Thái Lan, Miến Điện, Tây Tạng, Nhật Baœn, và Đại Hàn. Phật giáo mới du nhập vào Tây Phương có 200 năm, nhưng Tam Tạng Kinh đã được đầy đuœ sang Anh ngữ. Phaœi chăng đây là một thiếu sót lớn lao trong văn học PGVN. Trong thời gian Nhật Bản xâm lăng Cao Ly, quân Nhật cho đốt huœy toàn bộ Tam Tạng Kinh khắc vào những tấm gỗ đã được lưu trữ từ nhiều thế kyœ trong một ngôi cổ tự. Sau khi quân Nhật rút khoœi nước, một nhóm cao tăng hợp cùng với một tăng đoàn treœ trung cho khắc lại Tam Tạng Kinh trên những tấm gỗ quý. Ban ngày các vị tăng treœ lên rừng chặt cây, khênh về chùa, cưa thành từng tấm gỗ, rồi ban đêm, thầy trò cùng nhau khắc kinh. Trên 10 năm, toàn bộ Tam Tạng Kinh lại được khắc vào những tấm gỗ nhoœ lần thứ hai, cung kính xếp lên từng kệ sách. Bộ Tam Tạng Kinh này là quốc baœo cuœa Dân Tộc Cao Ly.

Phật giáo truyền vào nước ta trước khi vào Cao Ly, Nhật Baœn và trước rất xa Tây Tạng. Nước họ đã có baœn dịch Tam Tạng Kinh. Hình như ta chưa viết thêm được một trang sưœ có ý nghĩa vào bộ sách Phật giáo Sưœ Việt Nam.

Luận Tạng Pali là nền móng cuả triết học Tiểu thừa. Nghiên cứu Luận Tạng Pali là trơœ về với cái tâm tuœy cuœa những lời Phật dạy để nắm vững được toàn bộ kho tàng triết học, tâm lý học, đạo đức học, siêu hình học, vũ trụ quan, nhân sinh quan và thuyết nhân duyên sinh khơœi vạn pháp trong Phật giáo Tiểu thừa. Nếu đã quán triệt Luận Tạng Pali thì ta nhìn những tác phẩm cuœa Thales, Plato, Artistotle, Heraclitus, St. Augustine, St. Aquinas, Kant, Bacon, Pascal, Descartes, Heidegger, Kierkegaard, Abelard, Tillich, Freud, Jung, v.v… chỉ là những đống rơm trước cổng chùa.

Los Angeles

Mùa Phật Đản 1997.