Một người khi sinh ra đời, không phải ngẫu nhiên mà họ trở thành người tốt hay kẻ xấu. Chính sự tiếp xúc và tác động trực tiếp hoặc gián tiếp từ gia đình, người thân hay bạn bè xung quanh có ảnh hưởng rất lớn đối với người ấy. Việc hình thành nền tảng nhân cách đạo đức cũng như tâm tính của người này phụ thuộc phần nhiều vào các yếu tố khách quan tồn tại. Nói khác đi, chính hoàn cảnh sống và môi trường cộng trú chung đã phôi thai gần như toàn bộ nhận thức, tâm tư và tình cảm của họ. Sau này, họ có chững chạc, trưởng thành và tốt đẹp hay không, có bị xấu xa, lầm lỗi, tai tiếng hay không, môi trường tiếp xúc xung quanh ít nhiều vẫn là nguyên nhân quyết định.
Môi trường xuất gia là một môi trường tốt, có thể nói là nơi giáo dục nhân cách, đào tạo con người tốt đẹp và tuyệt vời. Đó là cách nhìn nhận và thẩm quyết chung. Bởi giản đơn, đời sống xuất gia bao giờ cũng thanh thoát, nhẹ nhàng, hạnh phúc và an lạc hơn người thế tục. Không phải người thế tục không có hạnh phúc, bình an, song dường như những điều này chỉ thoáng qua trong ngắn ngủi, tạm thời, còn lại là chuỗi ngày dài của bao âu lo, khổ đau lúc nào vẫn cứ như song hành, tiếp bước. Rất hiếm khi hạnh phúc đến với người ta miên viễn trọn đời, đa phần là ngược lại. Riêng người xuất gia không hẳn hoàn toàn khác xa với người thế tục, nghĩa là họ cũng có những lúc buồn khổ, âu lo. Nhưng những khi rơi vào trạng huống như thế, người xuất gia biết khôn ngoan tỉnh táo, chánh niệm và bình tâm để nhận diện, chuyển hóa não phiền. Do vậy, khổ đau kia sẽ vơi đi rất chóng. Ngay đây, sự an tĩnh nội tâm kịp thời được thiết lập, khả năng cân bằng trạng thái được củng cố, người xuất gia sẽ tìm lại sự bình an, thanh thản cho thân tâm.
Có nhiều nguyên nhân để khiến người ta phải xuất gia, từ bỏ gia đình để sống một đời không buộc ràng, vướng bận. Dù người ấy nhỏ tuổi hay lớn khôn, đã thành đạt huy hoàng hay chưa có danh vọng, địa vị gì trong xã hội; dù là người thuộc mọi giai tầng, thứ bậc nào hay dù người ấy có là gì đi chăng nữa; dẫu rất khác xa nhau trên tất cả phương diện, nhưng trong họ vẫn tồn tại ở một điểm chung: họ đã thẩm thấu, giác ngộ được một sự thật, một chân lý đích thực gì đó của cuộc đời. Sự thật, chân lý đó có thể là một yếu tố khổ đau, có thể là những nghĩ suy về sự phù du, tạm bợ của kiếp người, hay cũng có thể là một thoáng vô thường mong manh nơi cõi thế. Từ đó, trong họ chợt nảy nở tình thương. Tự nhiên, họ biết thương cho những đau khổ của bản thân, biết thương và bắt đầu biết quan tâm đến sự khổ đau của nhiều người xung quanh họ. Bởi có thương nên họ muốn làm một điều gì đó để đánh thức, kêu gọi yêu thương, hầu xoa dịu phần nào những đau khổ dẫy đầy mà con người đang ngày đêm đối mặt. Họ biết chỉ có xuất gia là con đường duy nhất giúp họ có cơ hội ấy, để họ có thể bước lên trên đỉnh yêu thương, có thể mở rộng vòng tay để sẵn sàng hiến dâng, ban tặng. Tình thương ấy, vì thế, thật vô cùng thanh cao và đẹp đẽ; tâm như thế, quả là những nhân tố đầu tiên của hạt giống Bồ-đề.
Ai xuất gia cũng có hạt giống Bồ-đề. Bởi hạt giống Bồ-đề là hạt giống của thương yêu và hiểu biết. Do thấu hiểu con người và cuộc đời đau khổ, trong tâm người ấy mới phát khởi tình thương. Hun đúc lớn mạnh tình thương, người xuất gia khao khát và trông mong chính mình sẽ trực tiếp hoặc trung gian giúp con người và cuộc đời vơi đi đau khổ. Hạt giống Bồ-đề do đó, rất cần thiết phải được thường xuyên vun bồi, tưới tẩm; phải biết chăm sóc làm sao để mỗi ngày đi qua, hạt giống Bồ-đề trong tâm người xuất gia phải mỗi ngày thêm lớn. Đến một lúc, hạt giống Bồ-đề ấy sẽ đâm chồi nảy lộc, phát triển thành cây và dâng hoa trái cho đời.
Mỗi người xuất gia được ví như một hạt giống Bồ-đề. Trong họ luôn tồn tại chất liệu của yêu thương và hiểu biết. Nếu người làm vườn chỉ đơn thuần gieo hạt mà không biết chăm sóc, tưới nước, bón phân v.v… thì sớm muộn gì, hạt giống kia sẽ héo khô, tàn úa. Không thể nói rằng chỉ gieo hạt vào lòng đất lạnh, cứ để tự nhiên hạt giống sẽ phát triển, nảy mầm. Người làm vườn không thể bỏ mặc cho hạt trơ trọi một mình, càng không thể phó thác hoàn toàn vào các yếu tố xung quanh tác động! Hạt giống Bồ-đề của người xuất gia cũng vậy, phải được sự yểm trợ, soi sáng và dìu dắt của đoàn thể chúng tăng!
Chúng ta có suy nghĩ gì không khi ai đó nói rằng, thực trạng hạt giống Bồ-đề ngày nay của người xuất gia đang dần bị tiêu mòn và thoái hóa? Người xuất gia sống trong một môi trường mà nơi đó, sự tu tập cũng như tình thương yêu của đại chúng không được những vị lãnh đạo có trách nhiệm nhắc nhở, bảo bọc, quan tâm. Họ sống trong chùa mà cứ như một quán trọ ở tạm, dừng chân, thoạt đến thoạt đi không cần phải oai nghi, phép tắc. Ngày mới thế phát xuất gia, người ấy luôn ấp ủ trong tim một hoài bão lớn, một tình thương yêu rộng mở vô bờ. Họ khao khát và tự ý thức cần phải có trách nhiệm hướng tới bờ giác ngộ xa kia, nơi chân trời của những khổ đau vắng bóng. Họ hăm hở như một chiến sĩ ra sa trường diệt giặc, sẵn sàng đối mặt và đương đầu với bao thử thách, gian nguy. Bởi trong họ có tình thương. Yếu tố này như chất xúc tác có hiệu năng giúp họ thực thi được nhiều lý tưởng. Và họ đã xuất gia. Song, thực tế từ khi xuất gia, chính vì không được tu học trong một môi trường tốt đẹp; không được thầy thương, bạn mến; sự tương thân tương ái quá yếu, ai ai cũng biết lo cho mình; không được sự chỉ dạy, nhắc nhở v.v… nói chung là những năng lượng bảo bọc của tăng đoàn, yếu tố sơ tâm hay hạt giống Bồ-đề trước kia sẽ không chuyển mình phát triển được. Bao hoài bão xanh trong của buổi ban sơ đã trôi theo sự giận hờn, vị kỉ. Rồi họ sẽ nhanh chóng quên bẵng đi họ là một vị xuất gia, quên đi trách nhiệm lớn lao mà những người thân, bè bạn cũng như tất cả mọi người đang tin tưởng và đặt nhiều kỳ vọng. Trong trường hợp này, vị ấy đã dần chết lịm, cũng như người làm vườn kia không biết chăm sóc hạt, cứ gieo mầm trên những mảnh đất cằn khô.
Nhưng có đúng không khi chúng ta quy kết mọi trách nhiệm và lỗi lầm lên người lãnh đạo, hay người lãnh đạo trách cứ ngược lại các vị xuất gia? Và có đúng không khi ai đó lại nói rằng, tất cả sự việc trên đều do môi trường và hoàn cảnh sống xung quanh tác động? Nếu vậy, cần thiết chăng chúng ta phải cải tạo môi trường sống ngay từ bây giờ? Cũng có rất nhiều vị thầy thương yêu, chăm lo cho đệ tử, thầm lặng một đời hy sinh cho đồ chúng rất nhiều. Nhưng những người đệ tử ấy lại vô phép, bướng bỉnh, coi sự quan tâm này như là một rào cản buộc ràng. Thế nên, vị đệ tử ấy nhanh chóng tìm cách thoát ra, sống riêng mình trong một thất nhỏ, một am tranh để được tự do, thoải mái. Rơi rớt đối với người xuất gia này, ngang đây có thể thấy được. Bởi người xuất gia ấy ở riêng, không còn nhận được năng lượng tiếp trợ và soi đường của toàn thể đại chúng, không chóng thì chầy, hạt giống Bồ-đề của vị ấy sẽ tàn phai, biết mất, tình thương yêu sẽ xóa dấu trong tâm. Khi đó, sức mạnh thế gian và sự quyến rũ của dục trần sẽ dễ dàng kéo lôi vị ấy quay về cuộc đời thế tục.
Vậy nên, trước khi xuất gia, người ấy phải sáng suốt khôn ngoan, tìm hiểu và lựa chọn cho mình một bậc minh sư để nương tựa trọn đời, một môi trường tốt, một đại chúng an hòa, trang nghiêm thanh tịnh. Chính điều này là những yếu tố tương quan căn bản, giúp hạt giống Bồ-đề trong tâm vị ấy nảy nở và lớn mạnh thêm lên. Vị ấy rồi sẽ tìm được hạnh phúc, an vui; lý tưởng và hoài bão xuất gia của vị này sẽ dựa vào nền tảng trên làm bệ phóng vững chắc. Họ sẽ sống đích thực với đời sống của một vị xuất gia, sẽ nói và làm với tư cách của một bậc xuất trần thượng sĩ.
Tập sách “Hạt giống Bồ-đề” này được hình thành xuất phát từ bao lý tưởng, khao khát, trông mong của những người xuất gia, nhất là những người xuất gia trẻ. Tập sách là một tập hợp vỏn vẹn chỉ có mười hai bài viết của mười hai sư chú còn rất thơ, rất trẻ. Mỗi bài viết như một trang màu chưa hoen ố, trên ấy hằn in những hoàn cảnh, nỗi niềm, tâm sự khác nhau. Có sư chú đi xuất gia để bệnh được mau lành, có sư chú xuất gia vì muốn gia đình không còn theo nghiệp sát; cũng có sư chú xuất gia bởi từ nhỏ đã được sinh hoạt, học tập theo Gia đình Phật tử, và cũng có sư chú xuất gia vì cảm thấy cuộc đời có một điều gì thật ngắn ngủi, vô thường. Lời lẽ mỗi bài dù rất bình dị, mộc mạc, đơn sơ, nhưng bàng bạc trong đó chất trẻ trung, trong sáng, chân thành và rất hồn nhiên dễ làm cho người xem cảm thông và đồng điệu. Làm sao không thể đồng điệu và cảm thông khi qua mỗi bài, mỗi sư chú đều nói lên tiếng nói trung thực xuất phát từ tận nguyện vọng, tâm tư cũng như nguyên nhân và mục đích xuất gia của mình! Tất cả đều có cùng một điểm chung: nguyện xuất gia để giúp mình, giúp người thêm vui, bớt khổ.
Chúng ta trân trọng và thương quý biết bao trước những tâm hồn trong sáng, tinh khôi, hiền lành của những người xuất gia trẻ ấy. Bởi chúng ta tin nhờ vào môi trường tốt đẹp, hạt giống Bồ-đề trong tâm những vị ấy sẽ mau chóng nảy mầm. Chúng ta cũng tin tưởng những hạt giống Bồ-đề này sẽ nhận được nhiều và thật nhiều hơn sự yểm trợ, dắt dìu từ bạn, từ thầy để mỗi ngày đi qua, hạt giống Bồ-đề sẽ được vun bồi, trưởng dưỡng. Chúng ta biết chắc rồi đây, sẽ có một sớm bình minh kia, những hạt giống Bồ-đề này sẽ vươn thân đâm nhánh, tỏa bóng bình yên che mát cho chúng sinh.
Xin trân trọng kính ghi vài dòng cho tập sách này như một lời chúc phúc tốt lành, nguyện cầu đạo tâm tôi luôn vững bền, kiên cố, cũng như hướng nguyện điều này đến mười hai hạt giống Bồ-đề huynh đệ của chúng tôi!
Cầu chúc cho những ai có duyên đọc được tập sách nhỏ bé này, nếu đã xuất gia, sẽ tưới tẩm mạnh hơn hạt giống Bồ-đề; còn chưa xuất gia, sẽ phát khởi Bồ-đề tâm xuất gia tu học!
Mục Lục
Tâm Khánh
Con nghĩ đạo Phật là nơi nương tựa cho chúng sinh, đem lại an vui và hạnh phúc đến mọi lồi. Cách phát tâm xuất gia của mỗi người tuy cĩ nhiều trường hợp khác nhau nhưng mục đích chung vẫn là hướng đến con đường giác ngộ, giải thốt…
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật!
Bạch thầy! Con xin trình bày về nguyên nhân và mục đích xuất gia của con.
Sống trên cõi đời này, mỗi người đều có những ước mơ và nguyện vọng riêng của mình. Người thì thích đi học để làm kỹ sư, bác sĩ; người không có khả năng thì chọn cho mình một nghề thích hợp. Dù có làm ngành nghề nào đi nữa, mục đích cũng chỉ là để nuôi sống bản thân và gia đình. Duy chỉ có con đường xuất gia của đạo Phật là con đường đi đến sự giác ngộ giải thoát, làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh, giúp mình và mọi loài được an vui hết khổ. Riêng con xuất gia là điều con mong muốn.
Hồi còn học trường tiểu học ở miền quê, con có tham gia vào Gia đình Phật tử. Mỗi tuần vào ngày chủ nhật, con đều đến chùa tụng kinh và sinh hoạt.
Khi lên trung học, mỗi ngày đi học một buổi, buổi còn lại theo cha phụ việc. Vì thế, đối với nghề nghiệp của cha mình, con cũng học được đôi chút.
Lên cấp ba, con vào thành phố để học vì ở miền quê không đủ điều kiện. Tốt nghiệp lớp 12 xong, con đăng ký thi vào đại học nhưng bị hỏng. Sau đó, con tiếp tục ôn tập để thi lại. Học được nửa năm, con lại về nhà vì gia đình khó khăn kinh tế. Ở nhà, vừa phụ gia đình vừa học lại nghề, trong vòng một năm con đã làm được việc. Làm việc hai năm, con bị bệnh. Tuy không nặng lắm nhưng lại thường xuyên. Con vào thành phố để chữa bệnh. Người ta chỉ cho con nên đến chùa để trị, vì ở đó có quý thầy chữa bệnh rất giỏi.
Tìm đến chùa, con xin ở lại một thời gian để chữa bệnh. Trong thời gian này, con mượn những quyển sách giáo lý nhà Phật để đọc. Khi biết được chút ít nhân quả, con hiểu rằng sở dĩ mình bệnh nhiều là do đời trước sát sinh hại vật, đời này phải trả quả báo. Lúc đó, con nghĩ nếu đời này không lo tu thì đời sau sẽ càng đau khổ hơn nữa, sẽ đọa vào ba đường ác, chịu trăm nghìn khổ não… Nghĩ đến đó, con liền muốn tu hành để được giải thoát. Chữa trị được thời gian, bệnh tình thuyên giảm, thầy hỏi con có muốn xuất gia không, con thưa rằng phải về xin phép ba mẹ. Sau khi trình bày sự việc, ba mẹ con liền đồng ý cho xuất gia.
Ở chùa công quả một thời gian, thầy mới thế phát. Sau khi xuất gia, thầy thử con bằng nhiều cách xem thử con có những tánh tham lam, lười biếng hay không… Sau đó, con phải xin thầy về chùa quê để tu học vì thầy là người theo phái Cổ Sơn môn, chỉ chuyên đi cúng.
Về chùa quê được một năm, con lại chuyển đến chùa Hoằng Pháp. Con đến được nơi đây là nhờ người chị giới thiệu. Con cũng biết được thầy là vị thầy chân chính, chùa tu pháp môn Tịnh độ hợp với tâm niệm của con. Mục đích xuất gia của con là cố gắng học giáo lý Phật pháp, đem những điều đã học áp dụng vào đời sống hằng ngày, sau sẽ chia sẻ với nhiều người để cùng nhau tu tập và làm cho đạo Phật ngày càng phát triển.
Tóm lại, vì bệnh khổ mà con phát tâm xuất gia. Đó là cách phát tâm không chân thật. Nhưng con nghĩ nếu cõi đời này không có những nỗi khổ về sinh, già, bệnh… thì việc phát tâm xuất gia giải thoát là điều rất khó. Con nghĩ đạo Phật là nơi nương tựa cho chúng sinh, đem lại an vui và hạnh phúc đến mọi loài. Cách phát tâm xuất gia của mỗi người tuy có nhiều trường hợp khác nhau nhưng mục đích chung vẫn là hướng đến con đường giác ngộ, giải thoát.
Tâm Đại
Hôm nay xuất gia, do thương xót chúng sinh chưa hiểu đạo, chưa biết đến con đường giải thoát nên phải sống trong thất tình ngũ dục, bị luân hồi đau khổ nhiều kiếp, nhiều đời. Lại xuất gia bởi nhớ ơn Phật đã thị hiện vì con đường thoát khổ của chúng sinh…
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Kính bạch thầy!
Sáng nay, nghe thầy nói về đề tài “Vì sao xuất gia”, con mới sực nhớ lại quãng thời gian khó khăn, gian khó khi chưa được xuất gia. Lòng con tự nhiên bồn chồn, xúc động và xao xuyến. Con tự nghĩ vì sao mình lại có cảm giác đó?
Hồi tưởng lại những tháng năm quá khứ, mọi việc hiện ra dường như mới hôm qua. Con xuất thân trong một gia đình nghèo, ba mẹ đau ốm liên miên, nhưng con chẳng biết gì cả, cứ mê mờ một cách điên đảo, rất vô tư trước hoàn cảnh gia đình. Còn ba mẹ ngày đêm làm việc cật lực nuôi bốn người con.
Thời gian trôi đi rất nhanh, con đã lớn và vô tình gặp được chân lý đạo Phật, đó là một luồng sáng mãnh liệt sáng chói đời con. Con nhớ nhà thơ Tố Hữu có bài thơ Từ Ấy:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Đây là chân lý cách mạng. Còn ánh sáng đã chói xuyên tim con là ánh sáng của trí tuệ – từ bi và giải thoát…
Từ đó con bắt đầu hành Tứ niệm xứ. Ngày đi học, đêm về ngồi thiền, không biết mệt mỏi. Sau hai năm thực hành, sức chánh niệm đã phát khởi. Lúc đó, con nhìn cuộc đời với con mắt khác thường, như là khổ mọi bề mà không biết là khổ… Có nhiều lúc, tâm lý con tràn ngập lòng từ bi, nhìn ai cũng thương xót, kể cả con vật.
Tình thương của con không có giới hạn và không phân biệt. Có thể nói con thương tất cả mọi người, mọi vật như “con đỏ” vậy. Rồi có khi ngồi một mình, tự nhiên nhìn mọi người mà nước mắt chảy ra. Nhìn Phật con cũng chảy nước mắt vì Phật thương chúng sinh lắm, mà chúng sinh không biết được. Tình thương của con lúc đó vừa nồng ấm, da diết, vừa đậm đà, bao la. Con biết lúc đó con bị “ma bi” xâm nhập rồi nhưng con chưa xả ngay được.
Hoàn cảnh nhà nghèo nên con cũng dần hiểu ra và biết thương ba mẹ. Ba mẹ thức khuya dậy sớm để lo miếng cơm cho con no bụng, tạo dựng cho đời con mảnh áo ấm thân. Ngày con còn bé, ba mẹ dắt tay con đến trường tìm thầy, hỏi bạn, rồi lo cho con học chữ, học nghề. Bao nhiêu tinh hoa của ba mẹ thể như đã truyền hết cho đời con. Rồi ngày qua tháng lại thân con đau bệnh, ba mẹ thường hay khấn hứa cầu vái ông bà tổ tiên, miệng luôn lâm râm cầu nguyện, làm sao cho con khỏi bệnh. Tình thương này không thể diễn tả bằng lời được. Nhưng rồi đến khi cả ba mẹ bệnh nặng, con cũng chẳng biết làm gì, bao nhiêu của cải tích góp đều dùng vào tiền thuốc thang. Con định bỏ học nhưng nhờ thầy cô, bạn bè giúp đỡ mới học hết cấp ba. Sau con vào miền Nam, tự nhiên lại phát tâm muốn xuất gia, không đi theo con đường của ba mẹ và mọi người, nên con đã viết thư gởi về nhà để trình bày ý nguyện. Sau ba ngày điện thoại hỏi ba thì nghe ba khóc khan cả tiếng, nói không ra lời. Đầu tiên, con nghe ba khóc và mẹ bỏ ăn hai ngày, chỉ ngồi mà khóc thôi. Con cảm động đến rơi nước mắt, liền nói lời xin lỗi ba mẹ và lên xe về nhà luôn.
Thời gian sau, ông nội con sắp mất vì bệnh nặng, con rất buồn vì với con, ông nội như một người bạn thời thơ ấu. Con thấy ông nội tái mặt và không thở, các ngón tay còn hơi động đậy. Thế là lát sau, ông đã ra đi về cõi vĩnh hằng.
Sau mười ngày ông mất, con đã bỏ nhà ra đi vào đêm khuya khoảng 1h10 phút và để lại một tờ giấy cho ba mẹ: “Xin ba mẹ hãy yên tâm…”. Đi dọc bờ biển gió rất lạnh, sóng xô vào bờ bọt trắng xóa. Trên thì cây cối đen xì và cao như những người khổng lồ, dưới con bước nhanh thoăn thoắt. Không hiểu sao lúc đó, con lại không sợ ma? Hình như có một sức mạnh vô hình trong lòng con trỗi dậy, “đó chính là Bồ-đề tâm”. Đêm đó, ngủ ngoài biển rất lạnh, lạnh đến thấu xương nhưng con vẫn cố gắng giữ ấm cơ thể. Hôm sau, con đến một ngôi chùa và ở đó gần bốn tháng để làm công quả. Thời gian sau, con về nhà và mọi người đều biết con đi tu. Thế là làng xóm bàn tán chê bai, nhưng con vẫn im lặng. Song, người gánh nặng niềm đau lớn nhất chính là ba mẹ của con. Dù ba mẹ nói cho con đi tu, nhưng trong lòng không nỡ.
Ít lâu sau, vì muốn vào chùa Hoằng Pháp (một người bạn giới thiệu cho con biết) làm công quả, nên con đã ba lần đi bán máu để lấy tiền trốn đi nhưng cả ba lần không biết vì sao không được.
Khi ba mẹ thấy không thể cản được ý nguyện của con nên mới miễn cưỡng đồng ý. Lúc đó, mẹ nhìn con với hai dòng lệ nhỏ. Con cũng khóc, tự nhiên thấy thương ba mẹ vô cùng.
Hôm nay xuất gia, do thương xót chúng sinh chưa hiểu đạo, chưa biết đến con đường giải thoát nên phải sống trong thất tình ngũ dục, bị luân hồi đau khổ nhiều kiếp, nhiều đời. Lại xuất gia bởi nhớ ơn Phật đã thị hiện vì con đường thoát khổ của chúng sinh. Hơn nữa, tận mắt chứng kiến sự ra đi của ông nội con nên đã thức tỉnh và thương lấy chính mình rồi cũng sẽ có ngày như vậy. Mà nhất là, con xuất gia vì thương ba mẹ con chưa biết đạo và con đường giải thoát lìa khổ được vui.
Nam mô A-di-đà Phật.
Tâm Huy
Con nguyện tu hành với mục đích là có điều kiện tinh tấn, siêng năng trau dồi đạo đức, rửa sạch tham, sân, si để rồi mai đây sẽ có một ngày, con dùng chính sự hiểu biết, đức độ và trí tuệ của mình để giúp nhiều người chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau, đạt được giá trị hạnh phúc chân thật bằng cách phổ biến giáo lý của Phật để ai ai cũng được an vui, giải thoát…
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật!
Kính bạch trên thầy!
Con là Phạm Quốc Việt, pháp danh Tâm Huy, năm nay 22 tuổi. Là Phật tử tại gia có lòng ngưỡng mộ đạo pháp, đặc biệt lại tin sâu về luật nhân quả. Thay vì cầm tấm bằng “kế toán” vào công ty, doanh nghiệp làm việc thì con lại chọn con đường xuất gia tìm cầu giải thoát sinh tử.
Có lẽ là một duyên lành thật lớn của con, được may mắn sớm gần ngôi Tam Bảo, tiếp cận chùa chiền, kết duyên với Phật. Vào những ngày lễ được theo họ hàng, anh em, bạn bè đến chùa tham quan, lễ bái, làm công quả hay nhiều lần cùng quý thầy, quý sư cô làm bánh chưng, nấu cơm, quét rác… con được nghe và tiếp chuyện cùng với quý thầy, quý sư cô ít nhiều về giáo pháp của đức Phật. Trong con đã nhận thức được đời sống tu hành vốn đạo đức và cao thượng. Thế nhưng, những ngày ấy con chỉ muốn làm một cư sĩ tu tại gia vì tuổi còn nhỏ, còn phải đi học. Giả như muốn xuất gia thì chắc chắn ông bà, bố mẹ không đồng ý, cũng có thể là vì sợ con không chịu nổi sự thiếu thốn và bao quy củ nơi chốn tòng lâm. Nhưng những ý nghĩ ấy đã thay đổi hẳn khi con đã tốt nghiệp 12 và đi học “kế toán”. Trong thời gian này, vì nhà xa nên phải ở trọ. May mắn thay, con được ở trong nhà Phật tử có ba người đi tu. Ở đây, con đã thật sự phát tâm Bồ-đề, có ý nguyện xuất gia tu học.
Được nghe và biết ít nhiều giáo lý, con thật sự hiểu đời là vô thường, không biết thân này già, bệnh rồi chết lúc nào. Có sinh phải có tử, có hợp phải có tan, có thành ắt có bại. Đó là sự thật. Hiểu rằng nếu đem cả cuộc đời này để tìm cầu tiền bạc, danh dự, sắc đẹp của trần tục thì cả đời cứ mãi bôn ba chẳng giải thoát được. Vì thế, con nghĩ chỉ có con đường xuất gia đi theo đức Phật mới hết khổ, mới có thể đền đáp được công ơn của ông bà, ba mẹ nhiều kiếp nhiều đời. Các bậc thánh, tổ cũng từ hai chữ xuất gia mà được. Nhìn lại thân phận của con có gì để vướng bận đâu. “Vợ còn chưa có lấy đâu con”. Vì thế, thời gian này là thời gian tốt nhất để con xuất gia nương tựa quý thầy tu học.
Nếu có ai đó hỏi con rằng: ở nhà tu cũng được đấy thôi? Xin được thưa rằng: Con không muốn tu mù, con không thể tự lực được mà con cần có thầy, cần bạn để nương tựa. Nếu con ở ngoài đời thì nơi đây có đầy ngũ dục lôi kéo, rồi dính mắc gia đình, tài sản, bao nhiêu thứ ràng buộc hết sức nặng nề. Với lại, việc tu hành đâu là chuyện của một ngày, hai ngày, đâu phải là vấn đề của cá nhân. Con nghĩ, muốn giải thoát sinh tử thì chỉ có một phương pháp duy nhất là xuất gia. Và con đã lựa chọn.
Sau khi xuất gia rồi, con sẽ được đại chúng dạy bảo, hướng dẫn, đỡ nâng, khuyến khích con trên bước đường tu học. Con nguyện tu hành với mục đích là có điều kiện tinh tấn, siêng năng trau dồi đạo đức, rửa sạch tham, sân, si để rồi mai đây sẽ có một ngày, con dùng chính sự hiểu biết, đức độ và trí tuệ của mình để giúp nhiều người chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau, đạt được giá trị hạnh phúc chân thật bằng cách phổ biến giáo lý của Phật để ai ai cũng được an vui, giải thoát.
Kính bạch thầy!
Trên đây là những tâm tư, suy nghĩ, ý nguyện từ đáy lòng con. Con biết để ý nguyện đó trở thành hiện thực thì con phải cố gắng rất nhiều. Mong thầy cùng quý thầy dang rộng cánh tay từ bi chỉ dạy để con được trọn đời tu học. Nguyện sẽ noi gương và vâng theo lời dạy của thầy, đoàn kết lẫn nhau, tiếp nối và kế thừa đạo hạnh của chư Phật, chư tổ.
Nam mô A-di-đà Phật!
Tâm Luân
Con biết mỗi người đều có một chí nguyện khác nhau nhưng đối với bản thân, con xuất gia trước hết vì mong cầu giải thoát. Trước độ mình sau mới độ người; trên cầu giáo pháp Như Lai, dưới độ chúng sinh hết khổ…
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật.
Kính bạch thầy!
Con xin trình bày nguyên nhân và mục đích xuất gia.
Nói đến hai chữ “xuất gia” là lòng con nao nức bồi hồi, mãi nhớ đến giây phút thiêng liêng cao quý ấy được thầy làm lễ thế phát. Đó là ngày 15/ 03/ 2006, là ngày mà cuộc đời con dường như thay đổi hẳn, từ một người phàm tục nay đã tìm ra con người phạm hạnh thanh cao, tìm đến một chân trời an lạc và giải thoát.
Trong cuộc sống có biết bao nhiêu điều mới mẻ. Sự hấp dẫn của chúng luôn khiến người ta phải lao mình vào để hưởng thụ, tìm cầu. Do thế, họ phải tranh đua, giành giật lẫn nhau. Và những điều này chính là nguyên nhân sâu xa làm cho họ phải rơi vào đau khổ. Con cũng là một trong những người như vậy.
Gia đình con có bảy anh em, con thứ năm. Hồi nhỏ, con rất thích đi chùa. Đi thì cứ đi nhưng con không biết gì hết, ngay cả Phật như thế nào con cũng không rõ. Con chỉ là một đứa bé hồn nhiên, ngây thơ. Đến năm 13, 14 tuổi, khả năng nhận thức của con bắt đầu thay đổi. Cũng nhờ nhân duyên tiếp cận gần chùa, được học giáo lý do Gia đình Phật tử dạy nên càng ngày con càng yêu thích. Mỗi khi rảnh rỗi, con thường mượn sách của một số cô trong xóm đọc. Sách do các cô thỉnh được từ chùa, như: Lịch sử đức Phật, Nhân quả ba đời, Tu nhà… mới biết rằng Phật là một con người vĩ đại. Ngài đã vì chúng sinh gánh chịu biết bao khổ đau. Cũng chính vì nhân duyên đọc được những cuốn sách đó nên con dần hiểu ra cuộc đời là vô thường, thân người giả tạm, kiếp sống mong manh. Bởi hiểu được phần nào giáo lý ấy mà ý định xuất gia trong con bắt đầu nhen nhúm. Và để khởi đầu cho ý định này, con được các cô trong xóm dẫn đi tu ba ngày tại chùa Bửu Thắng. Tại đây, con đã gặp được quý thầy ở chùa Hoằng Pháp đến hướng dẫn niệm Phật và thuyết pháp.
Lần đầu tiên được gặp quý thầy, một cảm giác hạnh phúc lạ thường như cứ nhẹ nhàng len lỏi trong con. Lúc đó, chí nguyện xuất gia của con càng tăng trưởng mạnh. Con nghĩ, giá mà được như quý thầy thì hạnh phúc biết mấy!
Sau đó, con được nghe một người bạn của mẹ giới thiệu chùa Hoằng Pháp có tổ chức khóa tu bảy ngày. Con bèn xin đi tu Phật thất và được mẹ đồng ý. Con gom góp số tiền dành dụm được bấy lâu nay cùng đi với các cô trong xóm.
Chùa Hoằng Pháp là chốn thiền môn thanh tịnh, là nơi con ấp ủ muốn thực hiện lý tưởng. Con được vào tu Phật thất bảy ngày. Bảy ngày trôi qua rất nhanh nhưng đối với con, đó là một khoảng thời gian dài vì lần đầu tiên xa nhà, khiến con cảm thấy nhớ nhung, luyến tiếc. Con bèn gọi điện về nhà xin ở lại chùa để làm công quả nhưng mẹ không cho. Con năn nỉ mãi. Cuối cùng mẹ mới đồng ý. Con rất vui và hạnh phúc khi được ở lại chùa làm công quả cùng quý thầy.
Thời gian lặng lẽ trôi qua, bỗng một ngày kia, con tự nhận ra rằng tại sao mình không xuất gia với chí nguyện bấy lâu ấp ủ? Con liền quyết định đăng ký tập sự xuất gia và được chú chúng trưởng Tâm Pháp dẫn lên chào thầy trụ trì để trình bày ý nguyện. Thầy trụ trì khuyên con phải gắng học kinh cho thuộc. Nghe thầy nói vậy, con mừng rỡ vô cùng. Lúc đó, con liền nỗ lực học kinh, nhưng khó nhất là chú Lăng-nghiêm, học hoài không thuộc. Tuy vậy, con vẫn cố gắng vừa học vừa làm công quả.
Thời gian tập sự của con trên sáu tháng. Nhưng rồi thời gian trôi qua rất nhanh, chỉ còn hai tháng nữa là đến ngày xuất gia, song kinh kệ chưa thuộc bao nhiêu nên con lại càng cố gắng hơn nữa.
Con nhớ, mỗi lần đi dùng bữa sáng, thầy luôn nhín chút ít thời gian để nhắc nhở, bảo ban những oai nghi, tế hạnh trong nếp sinh hoạt, tu tập thường ngày của đại chúng. Lúc ấy, con lại điện về nhà xin được xuất gia. Bởi mẹ con vốn là Phật tử, hiểu được chút ít Phật pháp nên Người đồng ý cho con ngay.
Trước ngày xuất gia, thầy trụ trì gọi chúng con lên để hỏi nguyên nhân và mục đích xuất gia. Con biết mỗi người đều có một chí nguyện khác nhau nhưng đối với bản thân, con xuất gia trước hết vì mong cầu giải thoát. Trước độ mình sau mới độ người; trên cầu giáo pháp Như Lai, dưới độ chúng sinh hết khổ.
Nhưng để được vậy, cần thiết phải có một đạo lực, một trình độ hiểu biết nhất định mới có thể dễ dàng thực hiện. Tuy con chưa làm được việc gì nhưng con cũng cố gắng dành trọn đời mình vào việc tu học, nghiên cứu kinh sách để phục vụ cho đạo pháp, đem lại sự an lạc, hạnh phúc cho mình và người. Đối với con, sự hưởng thụ cao nhất của đời người không gì hơn là được học và hành theo Phật pháp.
Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát!
Tâm Việt
Mặc dầu chí nguyện xuất gia là vậy nhưng sự thực hành của con vẫn chưa như sở nguyện, cúi đầu xin sám hối với thầy. Xin đem thân này ra cúng dường chư Phật, làm lợi lạc chúng sinh…
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật!
Kính bạch thầy!
Con sinh ra và lớn lên trong một gia đình truyền thống theo đạo Cao Đài (Đại Đạo Tam Kỳ). Vì vậy, nên đối với chân lý và giáo pháp của đạo Phật, con chưa từng có được cái nhìn và hiểu biết sâu sắc.
Vì là tín đồ của đạo Cao Đài, nên hằng năm, con cùng gia đình thường hành hương lên núi Bà Đen.
Tuy con chưa từng hiểu về đạo Phật, nhưng không biết tại sao, mỗi lần trông thấy tôn tượng của đức Quán Thế Âm Bồ-tát là trong tâm con có cảm xúc lạ kỳ, tràn đầy sự cung kính và hoan hỷ, liền dừng lại chiêm ngưỡng lễ lạy Ngài rồi mới đi.
Có một ngày, con cùng với mẹ đi đến làng nọ để thăm người quen. Trên đường đi, con chợt trông thấy một vị thầy với dáng vẻ trang nghiêm, từng bước chân chậm rãi, thanh thoát. Hình ảnh ấy đã phát sinh trong con một cảm giác tôn kính đặc biệt. Bỗng dưng, những phiền não trong người dường như nhẹ biến tan.
Con liền đến gần thầy xá chào. Trông nét mặt thầy đầy từ bi và an lạc, tự dưng, một ý niệm xuất gia len lỏi lên trong con. Con liền trình bày với thầy về ý niệm đó.
Thầy bảo:
– Con xuất gia được thì tốt. Điều đó rất đáng trân trọng. Theo thầy biết thì ở Hóc Môn có nhiều chùa, con hãy nên đến đó. Khi đi, hãy nhớ niệm Quán Âm!
Mấy tháng trôi qua, ý niệm xuất gia trong con vẫn không phai nhạt. Sáng một ngày hè, chợt nghĩ nhất định phải xin ba mẹ đi tu. Lại nghĩ nếu xin chưa chắc gì ba mẹ cho, thôi thì hãy bỏ nhà trốn đi vậy.
Ngồi xe đến thẳng ngã tư Hoóc Môn. Tới nơi vẫn chưa tìm được chùa. Phần thì trời nắng, phần lại mệt, nên ngồi nghỉ một lát. Chợt nhớ đến lời thầy dạy, liền niệm “Nam mô Quán Thế Âm Bồ-tát”. Lát sau, tiếp tục đi và lần này gặp được một ngôi chùa. Hỏi thăm bác xe ôm và được bác chỉ: “Chú muốn đi tu hả? Ở đây có chùa Hoằng Pháp lớn lắm, để tôi dẫn chú đến đó!”.
Và khi đọc cuốn “Tu nhà”, trong đó có đoạn thơ của ngài Thanh Sỹ làm cho con càng thêm dõng mãnh hơn trong sự lựa chọn con đường đi của mình, đoạn viết:
“Tu một thuở cứu thân vĩnh kiếp
Độ mình còn cứu vớt mẹ cha
Thuyền to một chiếc sắm ra
Tất nhiên chở hết cả nhà cùng đi”.
Một con đường thật cao thượng, con đường mà chỉ có những người đầy trí tuệ mới chỉ ra được, chắc là nhờ nhân duyên phước đức nhiều đời nên hôm nay con mới thấy được ánh sáng chân lý của đạo Phật.
Mặc dầu chí nguyện xuất gia là vậy nhưng sự thực hành của con vẫn chưa như sở nguyện, cúi đầu xin sám hối với thầy. Xin đem thân này ra cúng dường chư Phật, làm lợi lạc chúng sinh.
Nam mô A-di-đà Phật!
Nguyên Minh
Mục đích con xuất gia, không dám nghĩ tưởng đến những chuyện lớn lao, bởi theo con, khi thật sự có khả năng vững mạnh rồi mới có thể xông pha đảm đang, gánh vác Phật sự. Còn hiện tại, con là người nhỏ, chỉ biết cố gắng tu, học và làm một ít việc gì thầy giao sao cho vẹn toàn bổn phận và trách nhiệm. Chuyện ngày mai, để ngày mai sẽ tính!…
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật!
Kính bạch thầy!
Con biết đạo khi vừa 16 tuổi. Lúc đó, con có một người em cô cậu đi xuất gia. Những lần chú ấy về thăm gia đình, thấy hình tướng người tu sao sáng sủa hiền lành, ăn nói nhỏ nhẹ trang nghiêm, tự nhiên con muốn xuất gia như chú ấy.
Rồi con cũng đủ duyên vào đạo, biết thực tập nếp sống an hòa. Nhưng ngày ấy, bởi sơ tâm non kém, lại ở nhằm vào môi trường không tốt đẹp, cho nên chỉ xuất gia được một thời gian, lại vội vàng cuốn gói về đời. Từ đó, con đi làm nhiều nơi, chỗ nào cũng đi, việc nào cũng làm. Nhưng con thấy làm vậy cũng chỉ vì nuôi nấng, bồi bổ cho tấm thân mỏng manh, giả tạm, có gì là vui sướng dài lâu! Đi làm có bao nhiêu tiền bạc, con đều đem ra để mua trọn những đêm vui. Rong chơi như thế một thời gian, lại bình tâm nhìn nhận vấn đề, con thấy mọi thứ dường như quá ê chề, tội lỗi!
Vào một đêm tháng ba, con ngồi một mình trên lầu của nhà trọ, nhìn xuống một quán cốc bên đường, thấy mấy người thanh niên ngồi nhậu. Trong số đó, có một anh độ khoảng hai mươi mấy tuổi, đang ngồi chọc ghẹo một cô gái. Không biết cô gái đó hận thù, bực bội ra sao, điện thoại như thế nào, nhưng lát sau có một nhóm giang hồ khoảng năm sáu người xuất hiện và chém chết anh ta ngay tại chỗ. Từ chuyện tình yêu đến những chuyện về vợ chồng, con cái, anh em trong gia đình và những gia đình khác, con thấy đều xảy ra chuyện gây gỗ, bất hòa. Trong đêm đó, con cứ suy nghĩ mãi về con người và cuộc đời, nhớ lại lời Phật dạy trong kinh sao đúng quá. Phật dạy con người sở dĩ khổ đau, nguyên nhân dù nhiều, nhưng chung quy vẫn do người ta ái luyến và chấp thủ. Cái này là “tôi”, là của “tôi”. Vì tất cả đều là của “tôi”, nên có ai cố ý hay vô tình xúc phạm đến “tôi”, bản thân “tôi”, gia đình “tôi”, thế hệ “tôi” v.v… sẽ sinh muôn vàn chuyện khổ. Thế là sáng hôm sau, con xin nghỉ việc, lần nữa lại tính chuyện xuất gia.
Rồi có lẽ cũng bởi nhân duyên, con được đến đây nương vào chúng, vào thầy tu học. Ở nơi này, con thật sự sống trọn vẹn trong những ngày tháng an lành, hạnh phúc. Như tất cả huynh đệ đồng môn khác, con may mắn được thầy thường xuyên quan tâm, động viên và nhắc nhở, từ những việc nhỏ nhiệm thường ngày nơi tác phong, oai nghi, tư cách cho đến những hoài bão lợi lạc cho đời to lớn và vĩ đại hơn.
Mục đích con xuất gia, không dám nghĩ tưởng đến những chuyện lớn lao, bởi theo con, khi thật sự có khả năng vững mạnh rồi mới có thể xông pha đảm đang, gánh vác Phật sự. Còn hiện tại, con còn kém cỏi, chỉ biết cố gắng tu, học và làm một ít việc gì thầy giao sao cho vẹn toàn bổn phận và trách nhiệm. Chuyện ngày mai, để ngày mai sẽ tính!
Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát!
Tâm Nguyên
Hôm nay con chọn lý tưởng xuất gia, trước là báo hiếu mẹ cha, sau cầu thoát ly sinh tử, hóa độ mọi người, để mong mỏi ai ai cũng xa dần si mê lầm lạc, tìm cầu chân lý sáng suốt cho bản thân…
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật!
Kính bạch thầy!
Con xuất thân từ một gia đình không mấy khá, nhưng lại có truyền thống theo đạo Phật từ lâu. Thuở nhỏ, được ba mẹ chăm sóc dắt dìu, luôn hướng con theo những điều hay lẽ phải. Tuy vậy, số phận trớ trêu đã cướp mất đi người cha thân yêu khi con còn quá nhỏ (5 tuổi). Mẹ con lúc ấy đồng thời lại làm trách vụ của người cha, phải nuôi nấng, dạy bảo con từng li từng tí.
Việc làm đầu tiên của mẹ là cho con mình đến chùa sinh hoạt Gia đình Phật tử, không ngoài mục đích viết lên trang giấy trắng những ý đẹp lời hay. Và từ đó, như đã trở thành thói quen, cứ mùng một, ngày rằm là con đến chùa cùng mẹ.
Ban đầu, trong nhận thức của một đứa con nít, thì đến chùa chỉ để ham vui nô đùa cùng chúng bạn. Rồi thời gian được tiếp xúc với những bài hát, những bài giáo lý cơ bản về Phật pháp, trong tâm hồn non nớt của con như dần thấm đượm một điều gì. Nhất là vào những ngày lễ Phật đản, khi thấy quý thầy với áo Ca-sa vàng rực, dung tướng trang nghiêm đã gây cho con một ấn tượng mạnh mẽ. Một sự yêu thích lạ thường của đứa trẻ non nớt bỗng xuất hiện trong con. Âu đây cũng là hạt giống giúp cho con xuất gia tu đạo.
Nhưng một thời gian sau (đến khi học lớp 10) con càng xao lãng việc đến chùa, có khi lại còn nghi ngờ Phật pháp. Từ đó, khái niệm chùa chiền trong con bắt đầu phai nhạt hẳn, bởi chạy theo những đua đòi cùng chúng bạn, tham gia vào những trò chơi vô bổ, mất thời giờ.
Rồi 12 năm đèn sách cũng đi qua. Vào dịp hè, con được gia đình cho đi chơi Đà Lạt. Có thể nói, đây là chuyến đi mang lại sự chuyển biến rất lớn trong đời con. Đến Đà Lạt, được tham quan chùa Quán Thế Âm. Tình cờ, thấy quý thầy, quý cô đang xem bộ phim nói về Tổ Đạt-ma. Và không hiểu sao, có một câu nói trong phim làm con suy nghĩ mãi: “Khi chưa sinh ra, ai là ta? Khi ta sinh ra rồi, ta là ai?”.
Trở về nhà, sau nửa tháng, câu nói ấy không khi nào rời khỏi suy nghĩ của con. Lại tự hỏi rằng: “Ta là ai? Ta từ đâu đến? Ta sinh ra trên đời này để làm gì?”. Rồi nghĩ đến mẹ, cả đời làm lụng vất vả nuôi con. Có lúc đến cùng cực trong bao nỗi lo toan, song Người vẫn chẳng có một lời oán than, trách móc. Sự hy sinh ấy quả thật không gì có thể so sánh được.
Lại nghĩ về mình, tự nhiên thấy hổ thẹn vô cùng. Con có làm được gì để phụ giúp cho mẹ đâu, mà cứ mãi chạy theo những hoài bão viển vông, đua đòi đủ thứ mà quên đi việc đền ơn đáp nghĩa. Con thấy mình lầm lỗi quá, đáng trách quá. Nhìn rộng ra ngoài kia, cũng có không ít những kẻ như mình, vẫn ngày đêm lặn hụp trong si mê, đắm nhiễm. Chính đây là những nguyên nhân trọng yếu thôi thúc con phải xuất gia, bởi chỉ có con đường xuất gia mới có thể cứu con người ra khỏi vòng si mê, tham đắm.
Đọc qua lược sử đức Phật Thích-ca, con lại càng thấy hổ thẹn hơn nữa. Ngày xưa, Ngài ra đi cầu đạo với ý chí mãnh liệt, sẵn sàng bỏ lại sau lưng cung điện, tiền tài, vợ đẹp, con ngoan, trăm thứ vui thú của cuộc đời mà không hề luyến tiếc. Ngày nay, con ra đi chẳng có một xu dính túi. Thử hỏi, con có gì để mất, có gì để tiếc mà không theo gương đức Từ phụ Bổn sư? Với lại, ý thức được sự vô thường sinh tử của kiếp người, vui trong cảnh khổ, quanh quẩn đau thương. Cho nên, hôm nay con chọn lý tưởng xuất gia, trước là báo hiếu mẹ cha, sau cầu thoát ly sinh tử, hóa độ mọi người, để mong mỏi ai ai cũng xa dần si mê lầm lạc, tìm cầu chân lý sáng suốt cho bản thân.
Ngưỡng mong trên đức thầy, quý thầy cùng chư huynh đệ từ bi dạy dỗ, dìu dắt con hoàn thành ý nguyện của mình: “Thượng cầu hạ hoá”. Lấy trí tuệ làm sự nghiệp, lấy từ bi làm lẽ sống.
Nam mô A-di-đà Phật!
Tâm Thảo
Những lời của chúng con viết đây đều là lời chân thật tận đáy lòng, với niềm tin vào A-di-đà Phật. Lại nguyện đem niềm tin này khiến cho người còn chưa tin được tin và nguyện cùng nhau sinh về thế giới của A-di-đà Phật…
Kính bạch thầy!
“Xuất gia quả thật là việc mà không phải kẻ phàm phu, kẻ bình thường có thể làm được, cũng chẳng phải có chút ít phước lành mà được xuất gia”. Ấy vậy mà nay con có đủ duyên lành được trên thầy cùng chư đại đức tăng đồng ý cho con được thế phát xuất gia. Với con, đó là niềm hạnh phúc lớn.
Nhớ lại thời còn nhỏ, mỗi khi được mẹ dắt đi chùa lễ Phật vào dịp tết, con cảm thấy rất sung sướng! Đây có lẽ cũng là thiện căn ban đầu của con. Điều mà con cảm nhận về chùa lúc bấy giờ chỉ là hình ảnh của những chú tiểu. Các chú ấy cũng cùng tuổi thơ như con nhưng sao dễ thương quá! Những cái vá tóc trên đầu rất ngộ nghĩnh và con muốn được như vậy! Những pho tượng Phật, Bồ-tát với gương mặt từ bi hình như luôn mỉm cười, làm con cảm thấy rất gần gũi.
Sau lớn lên chút nữa, vì kinh tế gia đình hơi khó khăn nên con phải ra chợ để giúp mẹ vài việc. Thời gian đầu, bởi chưa quen nên rất khó chịu, song lại nghĩ là cố gắng hết mình để phụ mẹ buôn bán nhằm bớt gánh nặng phần nào nên lâu dần cũng thành quen. Rồi con đậu vào đại học, gia đình rất vui nên quyết định sắm cho con chiếc xe máy để được nở mặt với bạn bè.
Có được xe, ngoài giờ học, những khi rỗi rảnh con thường đi chơi. Nhưng chẳng hiểu sao con lại thích đi chùa. Bấy giờ, con tham gia vào công tác từ thiện ở các chùa, cho nên thỉnh thoảng vẫn qua đêm vài ngày ở ngoài vì đi xa. Chính điều này khiến gia đình hiểu lầm là con mê chơi không lo học (vì con đi chùa không cho nhà biết).
Thời gian đi chùa tụng kinh, công quả và làm từ thiện khiến con biết được việc buôn bán đang làm là không đúng, cho nên mới tập ăn chay dù chỉ ăn được nửa buổi, nửa buổi còn lại vẫn thèm ăn mặn. Cứ vậy kéo dài hơn một năm, cho đến khi quyết định phải xuất gia vì thấy mình nghiệp sát quá nặng, lại không muốn thấy mẹ vì tiền mà lao theo công việc tội lỗi, nên con muốn đi tu để mẹ nghỉ bán hầu giảm bớt sát nghiệp.
Ngôi chùa con được biết đến cũng như tạo duyên cho con với A-di-đà Phật là ngôi chùa Xá Lợi. Lúc vào phòng kinh sách chùa, đập vào mắt con là những tranh, tượng đủ loại về A-di-đà Phật, cho nên quyết định mua một bức tranh Tam Thánh và một quyển sách về Tịnh độ để tìm hiểu. Khi thật sự rõ ràng rồi mới biết thì ra A-di-đà Phật mà mình thắc mắc tại sao chùa nào hay tôn phái nào cũng đều hồi hướng về Ngài thật vĩ đại đến thế, chỉ có Ngài, chỉ có nguyện lực vô cùng từ bi của Ngài mới có thể khiến chúng sinh thời mạt pháp vượt khỏi sinh tử đến bờ an vui. Điều này làm con vui sướng và quyết định hướng về A-di-đà Phật mặc dù trước đó mỗi lần đi chùa con đều ngồi thiền, rồi tụng kinh, thậm chí nghe nói Mật tông hay cũng bắt chước mà trì chú, lòng vòng như vậy chẳng có kết quả gì, mà phiền não vẫn không sao giảm bớt.
Con đã tin A-di-đà Phật, đã thật sự niệm Phật và phần nào thấy được an lạc, nhưng còn vị thầy để mình nương tựa hay một ngôi chùa mà mình luôn mơ ước (có tượng Phật với các vị La-hán) thì chẳng sao tìm ra. Hơn nửa năm trời đi đó đây để tìm thầy, tìm chùa chuyên tu Tịnh độ thì tìm không được, con cảm thấy nản lòng, nghĩ mình phước mỏng nghiệp dày nên mới như vậy. Thậm chí tìm được vị thầy mà bên ngoài thấy có vẻ đĩnh đạc, cũng có nhiều Phật tử, nhưng khi tiếp cận thì hoàn toàn làm con thất vọng bởi đa phần những vị đó chẳng đáng làm người nam bình thường huống chi là một vị thầy, một vị thiện tri thức để con nương tựa.
Thất vọng, con quyết định thôi thì ở tại nhà tu và quyết định ăn chay trường, đóng cửa niệm Phật. Thói thường mẹ hay la mắng con sau mỗi lần đi như vậy nhưng từ dạo đóng cửa lo tu thì thấy mẹ không nói gì nữa. Tuy nhiên cũng có trở ngại là từ đó mẹ không mua thêm bó rau dư nào để lại tủ lạnh – hầu hết thức ăn chay của con chỉ là mớ rau sót lại của gia đình – nay bị cúp lương thực nên đành mở cửa ra tiệm chay gần nhà để mua. Vậy mà cũng kéo dài hơn hai tháng trời, cho đến lúc đồng tiền cuối cùng trong nhà cũng không còn đủ để dùng nữa. Suy đi nghĩ lại nên quyết định đi làm gì đó để kiếm sống, rồi lại nghĩ nếu như A-di-đà Phật phù hộ thì khiến cho mẹ đừng giận con nữa, và nếu như mẹ tiếp tục la mắng hay bắt đi làm lại nghề cũ chắc con trốn nhà đi luôn quá.
Nhưng rồi nghĩ sao thì nghĩ! Nửa đêm hôm đó mẹ con lại la mắng và bắt con phải trở lại làm nghề cũ nếu không thì tịch thu tài sản (bấy giờ con là người duy nhất trong gia đình được ngủ phòng riêng với đầy đủ tiện nghi và xe cộ). Sự việc xảy ra quá bất ngờ khiến cho con cảm thấy mình trống vắng, lúc bấy giờ mới thấm thía được sự vô thường của cuộc sống làm ý chí xuất gia của con càng thêm lớn mạnh vì mình còn gì đâu nữa để mà luyến tiếc! Nhưng vẫn chưa tin ở mình lắm, lại nghĩ đến A-di-đà Phật.
Sau khi tắm gội sạch sẽ con thắp ba nén nhang và làm hai lá thăm với chữ DI và chữ ĐÀ, nguyện với A-di-đà Phật nếu con ba lần được chữ DI thì con phải rời nhà mà đi xuất gia còn ngược lại thì ở nhà cho dù phải làm lại công việc xưa. Cả ba lần sau khi niệm danh hiệu Phật, con đều có lá thăm có chữ “Di”…. Đã gần 5 giờ sáng rồi, mới thu xếp áo quần cùng chiếc xe mà ra đi, đi lòng vòng cho đến vào khoảng 4 giờ chiều. Hôm đó là thứ bảy, con chạy xe hướng về hướng Tây Ninh gần ngã ba Lam Sơn thì gặp bà cụ mặc đồ tu đi về hướng chùa.
Con theo thói quen hễ thấy người ta đi đường không có xe là đều ngỏ ý chở giùm đến nơi mà vị ấy muốn. Cho nên, sau khi được bà cụ đồng ý, con giúp ngay. Nhờ nhân duyên đó mà con đến được chùa Hoằng Pháp và được xuất gia tu học.
Những lời của con viết đây đều là lời chân thật tận đáy lòng, với niềm tin vào A-di-đà Phật. Lại nguyện đem niềm tin này khiến cho người còn chưa tin được tin và nguyện cùng nhau sinh về thế giới của A-di-đà Phật.
Tâm Trung
Trong cuộc sống, ai cũng có nhiều ước mơ, hoài bão. Hoài bão xuất gia của con không vì hưởng thụ, không phải vì danh, vì lợi mà vì thấy được giá trị của đạo Phật, chân lý của đạo Phật, muốn đi theo con đường mà đức Phật đã đi, muốn thừa kế gia sản trí tuệ của Phật, giữ gìn và phát triển những tinh hoa của đạo Phật…
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật!
Kính bạch thầy!
Con sinh ra trong gia đình mà ba mẹ, ông bà đều theo đạo Phật. Do vậy, ít nhiều gì con cũng hấp thu được những giá trị đạo lý, tinh hoa của đạo Phật. Đó cũng là một trong những nguyên nhân thúc đẩy con đến chùa xuất gia học đạo sau này.
Trong gia đình thì mẹ thường dùng những lời của đức Phật, những mẩu chuyện mang tính giáo dục để khuyên răn, dạy dỗ con cái. Cách thức ấy đã hoán chuyển con từ một người thiếu nhân cách thành một con người có nhân cách; từ một người học trò yếu kém phẩm hạnh thành người học trò có đạo đức. Chân lý đầu tiên mà con học được, hiểu được từ mẹ con, đó là “phàm làm việc gì phải xét kỹ đến hậu quả của nó”.
Khi chưa biết nhân quả, con đã từng làm cho mọi người đau khổ, từng làm cho bố mẹ con phải khóc suốt bao đêm dài. Nhờ biết chút ít về nhân quả rồi, tâm hồn con đã được lau sạch bằng những lời Phật dạy. Kể từ đó, con biết lên chùa lễ Phật sám hối (một điều mà từ trước con chưa từng làm). Cho nên, ranh giới mảnh đất thiện tâm được nới rộng ra, và con bắt đầu biết làm nhiều việc thiện nho nhỏ.
Vào một đêm nọ, con được nghe câu chuyện về tiểu sử của đức Phật từ mẹ con. Nằm suy nghĩ về Ngài và trong con tự nhiên đặt ra hàng loạt câu hỏi: vì sao Tất Đạt Đa sống trong hoàng cung quyền quý cao sang nhưng Ngài không cảm thấy hạnh phúc thật sự? Vì sao Ngài lại dám từ bỏ gia đình, từ bỏ hoàng cung, từ bỏ vợ con để đi tìm chân lý? Vì sao? Vì sao?…
Ngay trong đêm ấy, con đã tìm ra cho mình câu trả lời: “Ngài dám từ bỏ những thứ giả tạm của thế gian để hướng tới cái xuất thế gian. Thế tại sao ta không làm như vậy, không đi theo dấu chân của Ngài?”. Và trong lòng con dần hình thành ý nghĩ xuất gia… Đây chính là nguyên nhân, động lực mạnh nhất khiến con đến chùa học đạo.
Khi tất cả người thân biết được ý nguyện của con, họ rất vui mừng và đồng tình ủng hộ. Thế là con đã bỏ lại sau lưng bạn bè, người thân, mái ấm gia đình và tất cả. Con đến chùa Hoằng Pháp tập sự và được xuất gia.
Trong cuộc sống, ai cũng có nhiều ước mơ, hoài bão. Ý nguyện xuất gia của con không vì hưởng thụ, không vì danh, vì lợi mà vì thấy được giá trị của đạo Phật, chân lý của đạo Phật, muốn đi theo con đường mà đức Phật đã đi, muốn thừa kế gia sản trí tuệ của Phật, giữ gìn và phát triển những tinh hoa của đạo Phật.
Ai đó đã từng nói: “Bạn có thể ngủ nửa giờ đồng hồ, ăn nửa bữa nhưng đừng bao giờ đi nửa đường chân lý”. Vì đi nửa đường chân lý sẽ không bao giờ nhìn thấy chân lý.
Trên đường học Phật có rất nhiều gian lao thử thách, nhưng đã làm đệ tử Phật thì phải cố gắng tiến bước, tiến bước về tâm linh, tiến bước về trí tuệ. Có như thế mới đền đáp được phần nào công ơn của Phật, sự dạy bảo nuôi dưỡng của thầy, của ba mẹ, của đàn na thí chủ và đem lại lợi ích cho mình, cho xã hội, cho đời này lẫn đời sau.
Tâm Lạc
Nay nhờ trên ân đức Thầy được thế phát xuất gia, chí nguyện đã viên thành. Nguyện dụng công tu tập, trước nuôi lớn lý tưởng, sau gìn giữ và phát huy bản hoài của chư Phật, chư Tổ…
Nam mô Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Phật!
Kính bạch thầy!
Theo con, việc xuất gia có nhiều lý do, nhưng vì sở học của con không được bao nhiêu nên việc trình bày chắc sẽ có nhiều trở ngại. Dù sao, con cũng cố gắng sơ lược vài ý chính, ngưỡng kính trình lên thầy.
Cách đây gần 5 năm, con không hề biết gì về chùa chiền, về Tam Bảo hay Phật pháp gì cả. Lúc nhỏ con chỉ biết đi học, lớn lên lại lo đi làm, miễn sao có tiền là được.
Sự đời trong cái rủi lại có cái may. Nhờ công việc làm ăn bị trắc trở, lại do thói đời đổi trắng thay đen mà hôm nay, con được xuất gia và biết tu học Phật pháp.
Vào năm 2001, cũng vì sân si mà công sức làm lụng vất vả tích góp trong 20 năm trời tan thành mây khói. Con bắt đầu chán nản cuộc đời, không còn nghị lực để có thể tiếp tục, lại lang thang như đứa trẻ mồ côi không cha không mẹ, bữa đói bữa no. Một hôm, trong cảnh chán chường tột độ, vô tình con đọc được cuốn sách cũ “Vô minh từ đâu có” của một người bạn cho mượn. Đọc xong, con cảm thấy thích lắm. Tiếp đến, có người chị quen cho mượn cuốn “Thập đại đệ tử truyện”. Xem xong, thấy lòng như nhẹ nhàng, cởi mở.
Từ đấy, con bắt đầu đọc và nghiên cứu sách của các thánh hiền. Ấn tượng nhất là phẩm Công đức xuất gia trong kinh Hiền Ngu. Do đây, hạt giống Bồ-đề trong con đã được gieo mầm nơi tâm thức.
Có một lần về quê chơi, vô tình dự đám tang của người em hàng xóm, chỉ mới có 25, 27 tuổi đời không đau không bệnh mà tự nhiên ngủ qua một đêm, sáng ra người nhà phát hiện đã chết.
Một bữa, con vào quán uống cà phê, thấy một người đàn ông cũng thuộc dạng giàu có ngồi ăn phở mà hai tay run lẩy bẩy, miệng nhai phều phào.
Lại một chuyện nữa. Có một người quen mới hồi xế ngồi uống trà nói chuyện vậy mà chiều tối đi dự đám cưới, nhậu say. Trên đường về, bị xe tông chết tại chỗ.
Rồi thêm một sự kiện nữa. Con chứng kiến có một thanh niên nọ mới hồi sáng đi hỏi vợ. 12 giờ trưa ăn nhậu xong, lấy xe máy chở ba chạy đi đâu chẳng biết, lại đâm thẳng vào cột điện chết tức tưởi.
Những cảnh ấy cứ liên tiếp đập vào mắt, tự nhiên con cảm nhận phần nào đó sự giả tạm, mong manh, ngắn ngủi của cuộc đời. Dường như định luật vô thường đã bao trùm lên tất cả. Trong lòng con, bắt đầu khởi lên tâm niệm xuất gia. Hơn nữa, con nghĩ mình đã ngoài tuổi 40, liệu có còn sống được bao lâu mà chần chừ, ngần ngại! Quỷ vô thường sẽ đến bất cứ lúc nào, tấn công bất cứ ai ở bất kỳ địa vị gì trong xã hội.
Lòng thì muốn đi tu, nhưng ngặt nỗi, hồi nào đến giờ có biết chùa chiền gì đâu? Không biết xin đi tu có chùa nào nhận hay không? Hơn nữa, lòng cứ nghĩ lớn tuổi rồi có tu được hay không, có lẽ phải tu từ nhỏ mới được, như các chú tiểu ở chùa tóc còn để chỏm. Vả lại, tu nơi nào phải xa gia đình chứ tu chùa gần nhà thì không hay. Nhưng rồi, việc gì đến sẽ đến…
Tháng 04 năm 2002, con có đến Thủ Dầu Một, Bình Dương chơi. Một đêm nọ, vô tình thả bộ dọc theo công viên, bất chợt con nhìn bên phải thấy một tịnh xá có tượng Quán Thế Âm, tượng thiên thủ 48 tay lộ thiên cao khoảng 3 mét. Tự nhiên thâm tâm con muốn được chiêm ngưỡng, lễ bái. Thế là con vào đó đi quanh mấy vòng. Nào giờ có biết lễ lạy gì đâu, song con vẫn lạy liền bốn lạy. Không hiểu sao, lễ xong, thấy lòng thanh thản kỳ lạ.
Đêm về, con không sao ngủ được, cứ mãi nghĩ nên hay không nên đi tu? Mà đi tu là phải xa gia đình, từ bỏ tất cả, việc trần gian không màng tới, liệu mình có làm nổi hay không? Con xem quyển truyện “Thoát vòng tục lụy”, thấy có đoạn viết: “Chỉ có kẻ đại trượng phu, tâm đại hùng đại lực mới thoát tục làm tăng, chứ chẳng phải ai ai cũng làm được”. Nghĩ lại thì con có gì đâu mà không tu được: vợ đẹp cũng không, tài sản cũng không! Đức Phật là một vị thái tử sống trong nhung lụa, vợ đẹp con xinh, quyền uy thế lực mà tại sao Ngài lại bỏ hết để vào rừng tìm chân lý? Hôm nay, chân lý Phật đã chỉ rõ, mình chỉ việc thực hành, không được cũng phải gắng cho được. Có lẽ vì đời trước vụng tu nên hôm nay ta mới như thế này đây. Nếu đời này không tu, không chừng đời sau ta sẽ trở thành ngạ quỷ hay súc sinh, cũng có thể vào địa ngục nữa…
Hôm sau, con quyết định đến gặp sư trụ trì tịnh xá mà hồi đêm con chiêm ngưỡng tượng Quán Thế Âm để xin tu. Thật bất ngờ, sư đồng ý liền. Thế là sư thu giấy chứng minh nhân dân và con được cạo tóc liền, nếu không chịu cạo tóc thì sư không cho ở đó tu, buộc lòng con phải cho sư cạo tóc. Con tập sự cũng được nửa năm. Ở đó, ngoài thời gian quét dọn, con chỉ học thôi, không có gì để làm, cho nên con thuộc gần hết luật Nghi sĩ. Sư rất thương con, nhưng ngặt nỗi tịnh xá của sư không có tên trong giáo hội nên chỉ tu tự do chứ không phải chính thức. Do vậy, việc thọ giới tu hành càng không hợp lệ. Vì biết không thể thọ giới, nên con mới xin thầy ra đi. Thế là con ra ngoài lên Sài Gòn ở nhà người quen đi làm. Vì trong thâm tâm đã muốn đi tu, nên con làm việc một cách rất miễn cưỡng.
Một hôm, tình cờ có người nói: “Mày muốn đi tu thì lên chùa Hoằng Pháp ở Hoóc Môn!”. Rồi con hỏi thăm và đến bổn tự (Hoằng Pháp). Lên đây công quả cũng được năm bảy lần, mới xin thầy tập sự xuất gia, trong lòng nửa mừng, nửa lo…
Hôm nọ, về thăm nhà, gia đình cũng ngỏ ý ở nhà cưới vợ làm ăn. Nhưng con nghĩ: “Vợ con chính là cái nợ oan gia”, gieo mầm quả khổ. Mình khổ, con mình khổ rồi đến lượt cháu mình khổ, cứ xoay vần mãi cái sinh, già, bệnh, chết…
Nhận thấy thân người khó được, Phật pháp khó gặp, cuộc sống vô thường. Hôm nay, dây ràng buộc đứt, cơ hội ngàn vàng đã tới; giờ đây danh vọng như hư vô, tiền tài như bọt nước, vợ đẹp con thơ là xiềng xích của tử sinh. Vậy thì bám víu vào chúng thật là tai họa! Dẫu biết rằng “tu đâu cho bằng tu nhà” nhưng chỉ e “đêm dài lắm mộng”. Chi bằng ta giẫm đạp lên nó mà thẳng tiến vào chốn thiền môn tu tập.
Nay nhờ trên ân đức thầy được thế phát xuất gia, chí nguyện đã viên thành. Nguyện dụng công tu tập, trước nuôi lớn lý tưởng, sau gìn giữ và phát huy bản hoài của chư Phật, chư tổ. Và con kính xin kết lại:
Công phu sớm tối chuyên cần
Đừng ham cuộc sống vô thường thế gian
Tin sâu pháp Phật nhiệm mầu,
Cứu mình, cứu thế, liễu sầu được an,
Nhất tâm niệm tiếng Di-đà,
Cầu về nước Phật ngồi đài liên hoa.
Cầu xin hồng ân Tam Bảo gia bị phò hộ độ trì cho thầy đạo hạnh tăng trưởng, lòng từ rộng khắp, trải tình thương đến muôn loài. Thứ nữa, ngưỡng mong thầy dìu dắt con trên bước đường tu học, sớm hoàn thành chí nguyện.
Thành kính tri ân thầy!
Nam mô A-di-đà Phật!
Tâm Mẫn
Khoác lên mình manh áo nâu sòng để bắt đầu cuộc sống tịnh hạnh, học theo giáo lý Như Lai, lấy trí tuệ làm ngọn đuốc soi đường. Xin nguyện mang ngọn đuốc ấy thắp sáng giáo lý vị nhân sinh của chư Phật để cứu độ mọi người vượt thoát sông mê, nguyện hết chúng sinh dứt bỏ não phiền quay về cõi tịnh…
Xa quê hương, con khăn gói vào thành phố với bao toan tính tìm kiếm một cuộc sống mới nơi chốn đô thành. Vào đến nơi, con chọn ngành Đông Y để học và tạo dựng sự nghiệp cho mình. Trong thời gian đi học, con may mắn được anh của một người bạn cho phép về thực tập ở phòng chẩn trị Đông y Vạn Ân Đường thuộc quận 12. Nơi đây, con có duyên lành được tiếp xúc với rất nhiều tăng sĩ khắp nơi đến chữa bệnh, trong số đó có thầy Nhuận Nghi – bấy giờ là tăng chúng ở chùa Hoằng Pháp. Nhờ sự hướng dẫn của thầy, con có đến viếng chùa vài lần. Vì là người cùng quê, thầy hay nhờ con mang kinh sách về quê giúp.
Nhân duyên là vậy! Đến đầu năm Giáp Thân (2004), sau khi về quê ăn Tết, con trở lại thành phố tìm đến chùa Hoằng Pháp để tu học và làm công quả. Ban đầu, mục đích của con khi về chùa chỉ là những danh lợi cá nhân, chí nguyện xuất gia chỉ hình thành sau thời gian tu học ở đây.
Qua tiếp xúc với thầy Nhuận Nghi, con biết rằng chùa Hoằng Pháp có một phòng Đông Y nhưng chưa có ai đủ khả năng để chịu trách nhiệm chữa trị ở đó. Suy đi tính lại, con thấy rằng về đó làm công quả cũng là một cơ hội cho mình. Vì trước nhất, đây là môi trường khá tốt cho con góp nhặt kinh nghiệm nhằm nâng cao tay nghề. Không chỉ thế, nếu có điều kiện thuận lợi con sẽ kiếm được vài bệnh nhân để điều trị ngoài giờ nhằm tăng thu nhập. Thế nên, quyết định về chùa làm công quả đã được con thực hiện bằng những dự tính mưu danh, cầu lợi.
Thời gian khi mới về chùa, con chỉ quét rác, sau đó thì xuống bếp nấu cơm. Dịp may lại đến, vì nhà bếp lại gần khu dưỡng lão nên con có cơ hội tiếp xúc và làm quen với các bác ở đây. Đa số họ đã lớn tuổi, nên bệnh tật là điều không thể tránh khỏi. Nắm bắt cơ hội, con mua sắm y cụ và những thứ cần thiết khác để điều trị cho họ. Vừa nấu cơm, vừa trị bệnh, con đã phải rất tranh thủ thời gian. Ngày nào cũng vậy, cơm vừa chín là con đã có mặt ở khu dưỡng lão để châm cứu cho mấy cụ già, châm cứu được một chút thì phải về xới cơm. Thời gian hạn hẹp, ban đầu con chỉ làm được chừng ba mươi phút mỗi ngày.
Cứ thế, công việc êm ả trôi đi một cách thuận lợi. Bệnh của các cụ cũng có phần thuyên giảm, do đó họ rất quý con. Được lòng mọi người, lại chữa được bệnh nên lúc này tiền cũng bắt đầu rót vào túi con đều đều. Song vì ở trong chùa, nhận tiền cũng không tiện, bởi vậy con thường từ chối hoặc có nhận thì cũng chẳng dám lấy nhiều. Con thầm nghĩ: “Lùi một bước, tiến ba bước, giờ gắng làm cho tốt để có danh tiếng, sau này muốn nhận thù lao cũng không muộn”.
Hai ba tháng sau, bệnh nhân mỗi ngày một nhiều, con vẫn vừa nấu cơm, vừa chữa bệnh, thời gian ngày càng hạn hẹp. Thế là, con tính đến chuyện nghỉ nấu cơm để dành thời gian chữa bệnh kiếm tiền. Con có hỏi qua ý kiến của thầy Giác Trí, là người chịu trách nhiệm dưới bếp, nhưng dường như thầy không thật bằng lòng. Nhưng may lúc đó có chú Lân cũng về chùa để tập sự xuất gia. Làm quen một thời gian, con rủ Lân đi nấu cơm rồi dần dần giao phó hết cho chú. Thấy mọi việc đã đâu vào đấy, con bắt đầu suy tính để chuẩn bị tìm kiếm một tương lai tốt hơn. Rồi theo cách làm thường tình của người chưa thật sự hiểu đạo, con nghĩ rằng: muốn cho tương lai được thành tựu thì nên đi tụng kinh, lễ Phật để cầu phước. Mà việc tụng kinh, lễ Phật lại là thời khóa tu học hằng ngày, ai về chùa làm công quả cũng phải công phu tu tập. Đây là việc làm chính lẽ nhưng do chưa thật chú tâm nên từ hôm về chùa đến nay con chỉ làm qua loa cho xong. Bấy giờ, vì có chủ đích nên con tinh tấn thực hành. Chính điều này đã giúp con có điều kiện tìm đến với những giáo lý vi diệu của kinh Phật. Đặc biệt, ở chùa Hoằng Pháp, các kinh tụng hằng ngày hầu hết đã được dịch nghĩa rõ ràng, dễ hiểu nên cũng rất dễ nhớ. Nhất là kinh Tám Điều và kinh Từ Tâm, nội dung hàm chứa trong đó thật gần gũi với cuộc sống. Đây là hai bản kinh con thích nhất và cũng từ đó đã nhen nhóm trong lòng những ý nghĩ thật cao đẹp chứa đựng trong từng câu từ của giáo pháp Phật.
Dần dần, con hình thành cho mình một tư tưởng thánh thiện hơn. Thêm vào đó là sự tác động của thầy Giác Trí, thầy Minh Thới… Qua vài lần trò chuyện với các thầy, trong lòng con đã có được ý niệm xuất gia. Chí nguyện ấy được vun bồi mỗi ngày một lớn. Thế là, trong con bắt đầu tồn tại hai dòng tư tưởng trái ngược nhau: một bên là những giáo lý cao đẹp thâm sâu của đức Phật, một bên lại là những mưu tính cho danh lợi bất thiện của xã hội đồng tiền.
Lúc này, con vẫn làm công quả, vẫn chữa bệnh nhưng với các khoản thù lao dần dần con đã từ chối một cách cứng rắn hơn. Thậm chí, con còn muốn đóng góp một phần chi phí để giúp đỡ cho những người bệnh. Ý niệm xuất gia ngày một lớn như chồi non giữa mùa xuân ấm áp. Và khi đọc được những dòng chữ trong cuốn sách “Phát tâm Bồ-đề” của chú Lân ở cùng phòng, ý niệm xuất gia của con trở nên thật mạnh mẽ như làn sóng ào ạt của biển khơi, dồn dập dứt khoát như thác ghềnh tuôn chảy. Sách đã cũ, chữ đã nhòa nhưng mỗi câu từ lại chứa đựng biết bao ý nghĩa như ánh sáng rọi vào tâm hồn con. Từ đây, con đã hiểu thế nào là sự thanh cao của đời sống phạm hạnh, thoát tục của người xuất gia. Quyển sách ấy đã trả lời những câu hỏi mà ai cũng sẽ đặt ra khi có ý niệm xuất gia: xuất gia để làm gì, mục đích ra sao? Người xuất gia phải sống như thế nào, phải làm những việc gì?… Dù không may mắn được đọc trọn vẹn quyển sách, nhưng từng câu từng chữ đã để lại trong con một cảm xúc thật đặc biệt.
Trong những tháng ngày đó, sống ở chùa, ăn cơm chùa, lại được gần quý thầy, con đã tìm thấy cho mình nhiều niềm vui mang đầy ý nghĩa cao đẹp. Những cảnh xô bồ, tranh danh đoạt lợi, tình tiền cờ bạc, rượu chè trai gái… mọi thứ như không còn tồn tại trong môi trường tăng hạnh thanh cao. Vào mỗi buổi sáng, sau khi dùng điểm tâm, thầy trụ trì thường kể chuyện, giảng giải những điều cần yếu để sách tấn mọi người tu tập. Từng câu, từng lời của thầy mang đến cho con những bài học đầy ý nghĩa thiết thực với cuộc sống, phù hợp với tâm tư của mọi người. Thầy giúp con hiểu được giá trị của việc xuất gia đối với xã hội. Chính điều đó đã củng cố niềm tin, làm cho ý niệm xuất gia càng thêm vững chắc.
Và rồi, khóa tu Phật thất lần thứ 27 đã đến. Thời gian này thầy trụ trì nhập thất để dưỡng bệnh. Trong những ngày đó, Phật tử về tu học khá đông. Con được quý thầy trong ban tổ chức phân công nấu cơm. Công việc thật bận rộn, mọi người làm việc đêm ngày với một tinh thần tích cực mà những năm qua con chưa thật sự để tâm. Con cũng bị cuốn vào nhịp độ làm việc cũng với tinh thần và khí thế đó để hòa nhập cùng mọi người. Nhìn quý thầy lưng áo ướt đẫm mồ hôi, tất bật với công việc, con không khỏi xúc động cảm mến, quý trọng vô cùng.
Cũng nhờ tinh thần đó, ý niệm xuất gia của con lại càng thêm tăng trưởng. Mỗi khi đêm về, ngả lưng chợp mắt để nghỉ ngơi, những ý niệm xuất gia vẫn cứ canh cánh bên lòng. Trằn trọc thao thức suy tư mãi, có lúc con như muốn vùng dậy chạy thật nhanh vào trong thất để gặp thầy trụ trì xin được xuống tóc đi tu. Suy nghĩ này cứ lặp đi lặp lại không biết bao nhiều lần. Từ ngày thầy vào thất, rồi khóa tu Phật thất kết thúc, mong muốn xuất gia ngày một thêm mạnh mẽ thôi thúc mãi không ngừng. Nhiều đêm, con như muốn đến bên thầy, quỳ dưới chân thầy để được nói lên tâm nguyện của mình. Dù cho những mệt nhọc của công việc làm con thiếp đi, nhưng khi bừng tỉnh, ý niệm xuất gia như sống lại và ngày càng lớn mạnh. Nhưng lúc này, con chưa đủ can đảm để đến gặp thầy.
Ngày Phật thất cuối cùng cũng đã trôi qua, thầy trụ trì cũng đã rời thất trở về tu học và sinh hoạt với tăng chúng. Lúc này, con quyết định đến xin thầy xuất gia. Thầy hiền từ khuyên nhủ: “Vậy thì tốt rồi, về lo học kinh cho thuộc!”. Nghe thầy nói vậy, con mừng không thể tả, trở về nỗ lực chăm học các kinh chú mà thầy đã dạy. Khó thuộc nhất là chú Lăng-nghiêm, còn các kinh khác, nhờ chuyên cần đọc tụng hằng ngày trong các thời khóa công phu nên con gần như đã thuộc làu.
Tính từ khi lên gặp thầy đến ngày xuất gia chỉ hơn hai tháng, con sống với một tinh thần mới mang nhiều hương vị hiền thiện, thấy mình như được tắm mát trong ánh hào quang của chư Phật. Những lời dạy bảo hằng ngày của thầy trụ trì cùng những lời khuyên nhủ mà các bậc thiện tri thức trong chùa trao dạy đã giúp con định hình cho mình một con đường chánh đạo tươi đẹp và cao thượng, giúp cho con biết được mình phải làm gì để mang lại an vui và hạnh phúc cho bản thân và cho mọi người xung quanh. Hạnh phúc đó rất mới, rất khác với những cái đang tồn tại ở cuộc sống ngoài đời. Đây không phải là hạnh phúc giả tạo có rồi lại mất, lẩn quẩn đâu bên trong những tội lỗi của con người. Những hạnh phúc như vậy thật sự quá mong manh và tầm thường! Nó không thể sánh được với những hạnh phúc mà con đang cố gắng kiếm tìm trong chánh đạo.
Bằng những tâm tư suy nghĩ như thế, con quyết định viết thư gửi về gia đình để xin ba mẹ chấp thuận cho mình được xuất gia. Thế là, lá thư đầu tiên cũng đã được gửi đi và theo đó là tâm trạng khắc khoải mong chờ hồi âm. Một ngày, hai ngày, ba ngày… sao thời gian trở nên dài quá! Chẳng biết có chuyện gì xảy ra không? Rồi kết quả cũng đã có sau hai tuần chờ đợi, những dòng chữ nơi quê nhà cũng đã đến tay con. Vừa đọc chỉ mới vài dòng, lòng con như thắt lại khi biết gia đình không đồng ý. Và lá thư thứ hai cũng chẳng mang lại tin tức gì khả quan hơn. Dù vậy, con vẫn một lòng quyết tâm đi hết con đường mà mình đã chọn. Con viết lá thư thứ ba thật dài, như muốn trút cạn cả lòng mình với hy vọng sẽ có sự chuyển biến trong suy nghĩ từ gia đình. Nhưng khi gởi đi rồi, tâm con vẫn còn bất an, con đã nghĩ đến chuyện táo bạo hơn: trường hợp nếu ba mẹ không cho nữa, thì con sẽ vẫn cứ xuất gia, chuyện gì đến sẽ tính sau!
Cũng trong thời gian này, có vài người bạn đến thăm con. Hầu hết khi đến đây, trong người họ đều đã có hơi men. Khi trò chuyện với họ, chuyện gì con cũng đề cập đến, chỉ mỗi ý định xuất gia vẫn giữ kín, không cho họ biết. Sau mỗi lần gặp gỡ, mỗi đêm về con lại trăn trở suy nghĩ rất nhiều. Nghĩ đến những lạc thú ở đời, nhớ đến hơi men của rượu, vị đắng của cà phê, và những lời nói ngọt ngào yêu thương…, con nghĩ đến những thú vui giả tạm mà bạn con đang tận hưởng ngoài cuộc sống đời thường. Đôi lúc cái ma lực ấy như muốn nuốt chửng ý định xuất gia, con muốn vứt bỏ tất cả để chạy theo nó, ôm chầm lấy nó, tận hưởng cảm giác được vui, được yêu mà nó mang đến. Nhưng con cũng không khỏi xót xa khi nhớ đến những điều bất thiện của cuộc sống ấy, rồi con lại đem cái cuộc sống tầm thường đó để so sánh với cuộc sống thanh cao của người xuất gia. Con nhớ đến quê hương, gia đình, bè bạn, ở quê nhà. Đa số mọi người đều chìm đắm trong lối sống mang nhiều ô tục: sáng ra kiếm vài ba miếng bỏ bụng rồi lao vào công việc, tranh danh đoạt lợi…, chiều về lại tụ tập làm bạn cùng ma men, vui cái vui chung với ma men, rồi sau đó không biết bao nhiêu điều sai quấy cũng xảy ra bởi ma men. Con nhớ đến ba, đến ông, đến bác, đến anh em dòng họ rồi cả những người ngoài xã hội ai ai cũng vướng vào cảnh đó không ít thì nhiều. Cái cảnh vui cũng rượu, buồn cũng rượu, chuyện lớn, chuyện nhỏ, đình đám, hội họp… tất tần tật đều mời ông ma men ghé thăm. Vì ông ta mà đánh nhau, vì ông ta mà tai nạn, cũng vì ông ta mà anh em bạn bè trở mặt thành thù hận… Ấy vậy mà ma men vẫn hiện hữu khắp nơi, người đời vẫn chìm đắm trong cái lạc thú suy bại đó. Dưới con mắt của người tỉnh táo, người ta say nhiều lắm. Say nhiều thì khổ nhiều, thế mà vẫn cứ say. Con lại nghĩ: ba mình ma men, anh mình ma men, chú bác anh em bà con… cũng là ma men, không khéo mai này không sớm thì muộn mình sẽ lại giống như họ. Cho nên, con quyết định dù gia đình không cho hay bất kỳ ai ngăn cản, thì con cũng phải xuất gia, không thể khác hơn được.
Rồi lần này con lại nhận được thư của gia đình. Lá thư rất ngắn, chữ viết lại ngoằn ngoèo, nhưng lại chứa đựng một nội dung thật quý báu, như tháo gỡ cho con bao trăn trở trong lòng. Ba viết: “Minh à! Thôi số con rứa thì con ráng tu học cho tốt!”. Chính nhờ câu nói này mà con đã được xuất gia. Trong lòng con tràn ngập niềm vui, vui vì mình sắp được xuất gia, vì vậy nên phải ráng “tu học cho tốt”.
Trong niềm hân hoan đó, hôm khảo các bài kinh phải học thuộc, con đã hoàn thành một cách trọn vẹn. Vậy là chỉ bảy ngày nữa thôi, lễ xuất gia sẽ được tổ chức và sau buổi lễ này, con sẽ bước vào hàng ngũ của tăng đoàn. Một cuộc sống mới thanh cao, tốt đẹp như đang mở ra phía trước, lòng con tràn ngập niềm vui và hạnh phúc.
Trước ngày xuất gia, sau khi họp chúng, thầy trụ trì gọi các chú đến để hỏi nguyện vọng và mục đích của từng người. Mỗi người một ý kiến khác nhau nhưng tựu trung lại, ai ai cũng cho rằng cuộc sống đời thường có gì đấy làm cho họ chưa thật toại nguyện. Thế nên, họ tìm đến cuộc sống mới có ý nghĩa hơn. Bằng tâm thành chí thiết với đạo, với đời, từng người đã nói lên lời phát nguyện của riêng mình. Còn con, đã bạch cùng thầy: “Qua một thời gian tìm hiểu Phật giáo, con thấy đây là con đường cứu cánh cho đời mình nên xin nguyện xuất gia tu học”. Vâng! Phật pháp không chỉ “cứu cánh cho đời mình” mà trong suy nghĩ của con, đó còn là “con đường cứu cánh” cho tất cả những ai giác ngộ khổ đau, muốn tìm về bến bờ giải thoát.
Đúng 04 giờ sáng ngày 19 tháng 06 năm Giáp Thân, lễ xuất gia chính thức được tổ chức. Con và các bạn đồng tu như được sinh ra lần thứ hai. Lần này cũng có cái đầu trọc gần giống như lần trước, chỉ có điều, cái đầu này cao hơn, đẹp hơn và sáng hơn. Cái đầu trọc trước kia là do bẩm thụ tinh cha huyết mẹ mà thành nên không khỏi nhiễm đắm trần tục. Lần này, cái đầu trọc ấy đã dần gột bỏ bụi trần, con khoác lên mình manh áo nâu sòng, bắt đầu cuộc sống tịnh hạnh, học theo giáo lý Như Lai, lấy trí tuệ làm ngọn đuốc soi đường. Xin nguyện mang ngọn đuốc ấy thắp sáng giáo lý vị nhân sinh của chư Phật để cứu độ mọi người vượt thoát sông mê; nguyện hết thảy chúng sinh dứt bỏ não phiền quay về cõi tịnh!
Tâm Hòa
Giờ đây, con mới biết xuất gia là để có thêm cơ hội nhìn lại chính mình. Khi biết nhìn lại và sửa mình cho tốt rồi thì con mới có điều kiện giúp đỡ mọi người cùng tốt, cùng hướng đến quả vị an lành, hạnh phúc…
Những cánh mai cuối cùng trên cành đã rơi, báo hiệu một mùa xuân sắp hết. Vậy là con đã xa nhà được năm năm, khoảng thời gian không dài với một đời người, nhưng cũng không thể gọi là quá ngắn đối với một người mới bắt đầu học đạo. Đôi lúc, con tự hỏi tại sao mình đi tu? Tu để làm gì? Thành Phật, thành hiền hay thành thánh?
Ngày đó, khi còn là cậu học trò cấp một, sau giờ tan trường, con thường hay đến ngồi trước cổng đình. Nhìn những hàng chữ Tàu ngay ngắn vuông vức trông cũng hay hay, hoặc những bức hoành phi sơn son thếp vàng… tất cả đều gợi lên trong con một nỗi niềm nhớ nhung, hoài cổ. Và con như thả hồn vào trong ấy…
Mỗi ngày, sau khi dùng cơm chiều xong, con thường đạp xe một mình lên chùa tụng kinh. Vì chùa trong gia tộc nên ít Phật tử đến, thỉnh thoảng chỉ có vài vị ở gần. Với con, tụng kinh như một nhiệm vụ hơn là sở thích. Khi nào có thầy thì tụng chậm một tí, không có thì 15 phút là xong. Con không biết tụng kinh như vậy để làm gì? Chỉ biết đến chùa tụng kinh sẽ được sống lâu và học giỏi!
Khi lớn lên một chút, con bắt đầu biết tìm hiểu vào ý nghĩa của kinh hơn là ngồi tụng suông. Con thấy Phật dạy cuộc đời là khổ, và Ngài chỉ ra con đường diệt khổ. Bởi chưa từng trải nghiệm lần nào nên đối với con, khổ đau của cuộc đời dường như chỉ là một khái niệm xa xôi, trừu tượng. Cho đến ngày kia, gia đình chợt xảy ra biến cố: cha mẹ bất hòa, cãi vã; những lời chỉ trích, những cú va đập cứ liên tục diễn ra trong căn nhà đầm ấm mà bấy lâu con luôn tự hào. Cuộc sống những tưởng là hạnh phúc dài lâu, song chỉ sau một chữ ký trên tờ giấy ly hôn, trong phút giây thôi, tất cả bỗng hóa thành hư ảo! Khác với mọi người, đứng trước hoàn cảnh ấy con rất bình tĩnh. Bao nhiêu nghi vấn giờ đây đã được tháo gỡ, chân lý Phật dạy là đây, ngay tại ngôi nhà này, ngay chính người thân của mình và ngay cả bản thân con nữa!
Từ đó, con về sống với mẹ. Ngoài những buổi đi học, còn lại con đều dành trọn thời gian tìm đọc thật nhiều những quyển kinh sách cũ nát mà con góp nhặt được. Thông qua nghĩa lý của kinh, dần con mới hiểu ra, dường như khổ và vui luôn là hai mặt tồn tại song đôi của mọi vấn đề. Trong niềm vui lúc nào cũng hàm chứa những mầm tang thương, đau khổ; buổi hội ngộ, tương phùng ắt sẽ có cảnh buồn bã, phân ly. Và con thấm thía thêm một điều, giản đơn thôi: cuộc đời vốn dĩ là thế!
Vậy là con bắt đầu nuôi lớn trong mình ý nguyện xuất gia, mong muốn tìm đâu giữa cuộc đời những gì được gọi là hạnh phúc chân thật, cũng như để minh định bản chất thật sự của chúng là gì?
Hàng ngày, trên đường đi học, con thường thấy các vị tu sĩ khoác y vàng, tay ôm bình bát khất thực, phong thái, dáng vẻ thật điềm đạm, thảnh thơi. Chỉ thấy vậy thôi, nhưng ngày lại ngày qua, hình ảnh trang nghiêm ấy như đã in sâu vào tâm thức, và thi thoảng trong giấc ngủ, lại nhẹ nhàng thoang thoảng hiện về. Con đem chuyện này bạch với thầy nhưng thầy không nói, chỉ cười; thưa với mẹ thì mẹ chỉ nhìn, đôi mắt xa xăm héo hắt. Con biết mẹ chỉ còn có con là niềm tin trong cuộc sống, nhưng con sẽ làm thế nào để mẹ vững tin và chấp thuận cho con xuất gia? Không phải mẹ không đồng ý với tâm nguyện của con, song mẹ chỉ lo con sẽ không chịu được những gian khổ khó khăn trong chốn tòng lâm quy củ, rồi sẽ thất vọng, chán chường…
Sau cùng, con quyết định ra đi theo con đường đã chọn, dù không biết cuộc sống mai này rồi sẽ ra sao…
Ấy thế mà đã năm năm, thời gian vụt nhanh như tên bắn. Trong tình thương thầy trò, huynh đệ, con thấy mình đã lớn lên thêm và chững chạc rất nhiều. Con cũng đã hiểu phần nào về những lời Phật dạy. Ngài nói đây là khổ thì không có gì là khổ hơn, Ngài nói đây là phương pháp để diệt khổ thì không còn phương pháp nào khác hơn nữa. Lần hồi suy ngẫm, con thấy rằng hạnh phúc chân thật chỉ có khi con người biết sống chân thật với tự thân và với mọi người. Thông điệp của tình thương luôn là chất liệu để hóa giải những nỗi khổ, niềm đau trong cuộc sống. Sở dĩ con người đau khổ là vì họ có quá nhiều nghi kỵ, tranh chấp. Nếu biết buông bỏ và tha thứ, thì cuộc sống sẽ an hòa và tốt đẹp hơn lên.
Phép mầu mà con có được là sự sẻ chia, thương yêu trong tình huynh đệ. Một ngày làm điều thiện, một ngày giúp mọi người tu đạo hiểu đạo là một ngày con an trú trong hạnh phúc của bản thân.
Hiện tại, vẫn chưa thể khẳng định mọi việc rồi sẽ ra sao, song trong tâm trí, con vẫn thừa nhận một điều: “Con đang hạnh phúc trong sự bảo bọc của đoàn thể tăng-già phạm hạnh, trong chân lý tối thượng của đức Từ phụ Thế Tôn”. Con cũng sẽ không quên chia sẻ hạnh phúc ấy với mẹ con, với tất cả mọi người. Giờ đây, con mới biết xuất gia là để có thêm cơ hội nhìn lại chính mình. Khi biết nhìn lại và sửa mình cho tốt rồi thì con mới có điều kiện giúp đỡ mọi người cùng tốt, cùng hướng đến quả vị an lành, hạnh phúc.