Hai Giới Bất Định – Ba Mươi Giới Ni Tát Kỳ Ba Dật Đề Trong Tỳ Kheo Giới

hai gioi bat dinh

1. Hai Giới Bất Định :

Bạch chư đại đức, 2 giới bất định (33) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.

Thứ 1 giới ngồi ở chỗ khuất. Nếu Tỳ kheo cùng nữ nhân ngồi riêng ở chỗ khuất, chỗ che, chỗ ngăn, chỗ có thể hành dâm, mà nói những lời phi giới pháp. Có người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm (34), nói Tỳ kheo ấy phạm 1 trong 3 tội sau đây, tội Ba la di, tội Tăng già bà thi sa, tội Ba dật đề; Tỳ kheo ấy cũng tự nói tôi phạm tội ấy. Như vậy thì phải trị theo 1 trong 3 tội sau đây, tội Ba la di, tội Tăng già bà thi sa, tội Ba dật đề. Phải đúng như người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói mà trị tội Tỳ kheo ấy một cách đúng phép. Như thế gọi là sự bất định.

Thứ 2 giới ngồi ở chỗ trống. Nếu Tỳ kheo cùng nữ nhân ngồi ở chỗ trống, chỗ không thể hành dâm, mà nói thô tục. Có người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói Tỳ kheo ấy phạm 1 trong 2 tội sau đây, tội Tăng già bà thi sa, tội Ba dật đề; Tỳ kheo ấy cũng tự nói tôi phạm tội ấy. Như vậy thì phải trị theo 1 trong 2 tội sau đây, tội Tăng già bà thi sa, tội Ba dật đề. Phải đúng như người nữ tín đồ đầy đủ tín tâm nói mà trị tội Tỳ kheo ấy một cách đúng phép. Như thế gọi là sự bất định.

Bạch chư đại đức, tôi đã nói 2 giới bất định. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 2 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 2 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị cùng im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

2. Ba Mươi Giới Xả Đọa :

Bạch chư đại đức, 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề (35) sau đây, cứ mỗi nửa tháng thì tụng một lần, và được rút ra từ trong Giới kinh.

Thứ 1 giới cất y quá hạn. Nếu Tỳ kheo 3 y (36) đã hoàn chỉnh, y công đức (37) đã xả, mà cất giữ trường y (38), thì không làm tịnh thí (39) cũng được cất giữ, nhưng quá 10 ngày thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 2 giới rời y mà ngủ. Nếu Tỳ kheo 3 y hoàn chỉnh, y công đức đã xả, mà trong 3 y rời 1 y ngủ khác chỗ (39b), thì, trừ được tăng Yết ma (40) cho phép, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 3 giới cất vải quá hạn. Nếu Tỳ kheo 3 y hoàn chỉnh (41), y công đức đã xả, nhưng Tỳ kheo ấy được vải phi thời, vậy cần thì cứ nhận, nhận rồi may y cho mau thành. Nếu vải đủ thì tốt, nếu vải không đủ thì được phép cất lại 1 tháng, chờ cho đủ vải. Nếu cất lại quá hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 4 giới lấy y không thân (42). Nếu Tỳ kheo lấy y của Tỳ kheo ni không phải thân quyến của mình, thì, trừ sự trao đổi, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 5 giới bảo giặt y cũ (43). Nếu Tỳ kheo bảo Tỳ kheo ni không phải thân quyến của mình giặt y cũ, hoặc nhuộm hoặc vỗ, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 6 giới xin người y mới (44). Nếu Tỳ kheo xin y mới nơi cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình, thì, trừ trường hợp khác, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề. Trường hợp khác là nếu y bị cướp, bị mất, bị cháy, bị trôi, như vậy gọi là trường hợp khác.

Thứ 7 giới lấy vải quá phận. Nếu Tỳ kheo y bị mất, bị cướp, bị cháy, bị trôi, và nếu cư sĩ hay vợ cư sĩ không phải thân quyến của mình tự ý xin cho nhiều vải, thì Tỳ kheo ấy nên nhận vải ấy theo sự biết vừa đủ. Nếu nhận nhiều hơn thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 8 giới xin thêm tiền y (45). Nếu Tỳ kheo có cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho Tỳ kheo ấy, nói rằng sắm số tiền may y như vậy để cúng cho Tỳ kheo tên như vậy. Tỳ kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý (45b) vậy mà vì muốn được y tốt nên đến nhà cư sĩ, nói như thế này: tốt lắm, cư sĩ, hãy vì tôi mà mua sắm cái y như vậy cho tôi. Như vậy mà được y thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 9 giới khuyên chung tiền lại (46). Nếu Tỳ kheo có 2 cư sĩ và vợ cư sĩ sắm tiền may y cho Tỳ kheo ấy, nói rằng mua y như vậy để cúng cho Tỳ kheo tên như vậy. Tỳ kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, vậy mà vì muốn được y tốt nên đến 2 nhà cư sĩ nói như vầy: tốt lắm, cư sĩ, hãy sắm tiền mua y như vậy, chung nhau mà mua cho tôi 1 cái y. Như vậy mà được y thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 10 giới đòi y quá hạn. Nếu Tỳ kheo có vua, đại thần, bà la môn, cư sĩ và vợ cư sĩ, phái người đưa số tiền sắm y đến cho Tỳ kheo ấy, nói rằng hãy cầm tiền sắm y này đến đưa cho vị Tỳ kheo tên như vậy. Người được phái đến chỗ Tỳ kheo ấy, nói với Tỳ kheo ấy, rằng bạch đại đức, nay con đem tiền sắm y đến cho ngài, xin ngài nhận lấy. Tỳ kheo ấy nói như thế này với người được phái, rằng tôi không nên nhận số tiền sắm y này; nếu khi tôi cần y thì phải đúng và thanh tịnh mới nhận được. Người được phái nói với Tỳ kheo ấy, rằng bạch đại đức, ngài có người giúp việc không? Tỳ kheo ấy nói có; có người ở trong chùa kia, có người nam cư sĩ kia, họ là những người giúp việc của các Tỳ kheo, thường giúp việc cho các ngài. Bấy giờ người được phái đi đến nơi người giúp việc, giao số tiền sắm y, rồi trở lại chỗ Tỳ kheo ấy, nói như vầy: bạch đại đức, người giúp việc tên như vậy, mà ngài đã chỉ, con đã giao cho người ấy số tiền sắm y. Khi nào đại đức thấy đúng lúc thì xin ngài đến người ấy, sẽ sắm được y. Tỳ kheo ấy khi cần y thì nên đến người giúp việc mà, lần thứ hai và lần thứ ba, nhắc cho người ấy nhớ, bằng cách nói rằng tôi cần y; nếu lần thứ hai và lần thứ ba nhắc cho người ấy nhớ mà được y thì tốt. Nếu không được y thì lần thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu, hãy yên lặng đứng trước người ấy; nếu lần thứ tư, lần thứ năm, lần thứ sáu, yên lặng đứng trước người ấy mà được y thì tốt. Nếu không được y mà đòi quá giới hạn nói trên để cho được y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề. Nếu không được y thì tự mình đi hay phái người đi, đến nơi người cho tiền sắm y mà nói, rằng trước đây người phái người đem tiền sắm y đến cho tôi, Tỳ kheo tên như vậy; nhưng rốt cuộc tôi không được y, vậy người hãy đi lấy về, đừng để mất đi. Đó là trường hợp có thể làm.

Thứ 11 giới ngọa cụ tơ tằm. Nếu Tỳ kheo kiếm tơ tằm xen với tơ lụa mà làm ngọa cụ mới, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 12 giới ngọa cụ lông đen. Nếu Tỳ kheo lấy lông dê mới và toàn đen mà làm ngọa cụ mới, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 13 giới ngọa cụ lông trắng. Nếu Tỳ kheo làm ngọa cụ mới thì nên dùng lông dê mà 2 phần màu đen, 3 phần màu trắng, và 4 phần màu lẫn lộn; nếu Tỳ kheo ấy không dùng 2 phần màu đen, 3 phần màu trắng, và 4 phần màu lẫn lộn (46b) mà làm ngọa cụ mới, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 14 giới ngọa cụ còn mới (47). Nếu Tỳ kheo thì làm ngọa cụ mới, phải dùng đến 6 năm. Nếu dưới 6 năm, không xả bỏ cái cũ mà thay vào đó làm cái mới, thì, trừ tăng Yết ma cho phép, phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 15 giới tọa cụ toàn mới (48). Nếu Tỳ kheo làm tọa cụ mới thì phải lấy 1 miếng tọa cụ cũ vuông vức 1 gang tay, may chồng lên trên tọa cụ mới để làm cho hỏng màu sắc đi. Nếu làm tọa cụ mới mà không lấy 1 miếng tọa cụ cũ vuông vức 1 gang tay, may chồng lên trên tọa cụ mới để làm cho hỏng màu sắc đi, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 16 giới cầm lông quá hạn (49). Nếu Tỳ kheo đi đường được lông dê, không có ai cầm giúp, thì mình được phép cầm lấy, nhưng cầm đi cho đến 3 do tuần mà thôi. Nếu không có ai cầm giúp, mình tự cầm lấy mà đi quá 3 do tuần, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 17 giới nhờ giặt lông dê (50). Nếu Tỳ kheo bảo Tỳ kheo ni không phải thân quyến giặt, nhuộm và vỗ giúp lông dê, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 18 giới cầm lấy tiền của (51). Nếu Tỳ kheo tự tay cầm lấy tiền, cầm lấy bạc vàng, hoặc bảo người cầm lấy, hoặc nhận lấy bằng cách bảo để xuống mặt đất, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 19 giới đổi chác tiền của (52). Nếu Tỳ kheo mà đổi chác (53) các thứ tiền và của báu, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 20 giới buôn bán các thứ. Nếu Tỳ kheo mà mua rẻ bán đắt mọi thứ, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 21 giới cất bát quá hạn. Nếu Tỳ kheo cất giữ trường bát (53b) mà không tịnh thí, thì chỉ được phép cất giữ 10 ngày. Quá thì hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 22 giới kiếm bát quá phận. Nếu Tỳ kheo dùng cái bát chưa đủ 5 chỗ hàn bịt, bát ấy cũng chưa rỉ nước, vậy mà thay vào đó đi tìm bát mới cho đẹp, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề. Tỳ kheo ấy nên đến giữa chư tăng mà xả bỏ bát mới ấy, và chư tăng tuần tự lấy cái bát của người thấp nhất (53c) đưa cho Tỳ kheo ấy dùng, và dùng cho đến bể. Đó là đúng trường hợp.

Thứ 23 giới kiếm chỉ dệt y (54). Nếu Tỳ kheo tự xin chỉ dệt, bảo thợ dệt không phải thân quyến của mình dệt y giúp, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 24 giới bảo thợ dệt thêm (55). Nếu Tỳ kheo có cư sĩ và vợ cư sĩ bảo thợ dệt dệt y cho Tỳ kheo ấy. Tỳ kheo ấy trước không có nhận lời xin tùy ý, lại đi đến chỗ thợ dệt, bảo rằng y này là dệt cho tôi, vậy anh dệt giúp cho thật đẹp, dệt cho rộng và bền, tốn thêm nhiều ít gì tôi cũng sẽ trả cho anh. Tỳ kheo ấy trả thêm tiền dầu chỉ đáng giá một bữa ăn mà được y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 25 giới đoạt lấy y lại. Nếu Tỳ kheo trước cho y Tỳ kheo khác, sau vì tức giâển nên tự đoạt lại, hay bảo người đoạt, và rằng hãy trả y lại cho tôi, tôi không cho ông nữa. Tỳ kheo kia trả y, mà Tỳ kheo ấy lấy y, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 26 giới cất thuốc quá hạn (56). Nếu Tỳ kheo có bịnh, thì thuốc dư như sữa tô, dầu, sữa tô tươi, mật ong, đường phèn, được dùng trong thì hạn 7 ngày. Nếu quá 7 ngày mà còn dùng thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 27 giới khăn tắm trước hạn (57). Nếu Tỳ kheo thì mùa xuân còn 1 tháng nên kiếm khăn tắm mưa, còn nửa tháng nên dùng mà tắm. Nếu Tỳ kheo mà trước kiết hạ hơn 1 tháng đã kiếm khăn tắm mưa, trước kiết hạ hơn nửa tháng đã dùng mà tắm (58), thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 28 giới cất y cúng gấp (59). Nếu Tỳ kheo còn 10 ngày nữa thì hết kiết hạ 3 tháng (60), chư Tỳ kheo được phép nhận y cúng vội vàng. Tỳ kheo ấy biết là y cúng vội vàng thì nên nhận, nhận rồi được cất giữ trong thì hạn của y ấy (61). Nếu cất giữ quá thì hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 29 giới rời y quá hạn (62). Nếu Tỳ kheo kiết hạ 3 tháng đã xong, sau đó 1 tháng ca đề (63) cũng hết, đến ở chỗ a lan nhã (64), mà là chỗ có sự nghi ngại, khiếp sợ. Tỳ kheo ấy ở chỗ như vậy, thì trong 3 y, muốn thì gửi để 1 y trong nhà thôn xóm. Tỳ kheo ấy có lý do như vậy thì được phép rời y mà ngủ đến 6 đêm. Rời quá thì hạn ấy thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Thứ 30 giới xoay vật chư tăng (65). Nếu Tỳ kheo biết đó là vật người ta muốn hiến cúng cho chư tăng, mà mình tìm cách xoay lại hiến cúng cho mình, thì phạm Ni tát kỳ Ba dật đề.

Bạch chư đại đức, tôi đã nói 30 giới Ni tát kỳ Ba dật đề. Nay xin hỏi chư đại đức, trong 30 giới ấy có thanh tịnh cả không? (Hỏi 3 lần). Bạch chư đại đức, trong 30 giới ấy các vị thanh tịnh cả, vì các vị im lặng. Việc này tôi nắm chắc như vậy.

————————–

Ghi Chú (33)

Bất định là tùy sự tố giác mà định tội danh và xử trị theo 1 trong 3 tội (Ba la di, Tăng già bà thi sa, Ba dật đề) hay theo 1 trong 2 tội (trừ Ba la di).

Ghi Chú (34)

Nữ tín đồ chánh tín Tam bảo, chấp trì ngũ giới, trí nhớ tốt và nói chắc thật.

Ghi Chú (35)

Dịch nghĩa là xả đọa, là xả thí những vật dụng dư thừa rồi sám hối, nếu không thì sẽ bị đọa lạc ác đạo.

Ghi Chú (36)

Là Tăng già lê, uất đa la tăng, an đà hội.

Ghi Chú (37)

Y công đức (ca hy na y) là y được xét thưởng sau 3 tháng an cư thanh tịnh. Ai được xét thưởng thì có 5 tháng (16/7 đến 15/12) được hưởng 5 điều Luật định.

Ghi Chú (38)

Trường y (y dài) là dài bằng 8 ngón tay và rộng bằng 4 ngón tay của Phật. Danh nghĩa (Vạn 70/346) nói trường y là y dư thừa; hễ vải dài 1 thước 6, rộng 8 tấc, thì đã gọi là trường y.

Ghi Chú (39)

Tịnh thí nghĩa là cho một cách trong sạch. Tịnh thí ở đây là Tỳ kheo có thừa những vật dụng (như y bát v/v) thì phải thí xả. Có 2 cách tịnh thí. Một là chân thật tịnh thí, là đem vật dụng thừa ra giữa chư tăng mà thí xả cho người khác. Hai là triển chuyển tịnh thí, là thí xả giữa chư tăng mà nói tên người mình muốn cho. Nếu người ấy vắng mặt thì chư tăng nói: Đại đức đã cho người ấy rồi thì đó là vật của người ấy; đại đức nên cất giữ giúp người ấy, và nếu cần thì mượn mà dùng.

Ghi Chú (39b)

Có bản chép: ngủ khác chỗ trong 1 đêm. Nhưng tra Tứ phần luật (Chính 22/603d) thì đúng như bản Đạo Tuyên chép: không có những chữ trong 1 đêm.

Ghi Chú (40)

Yết ma, dịch nghĩa là tác pháp biện sự. Việc gì của tăng cũng phải do chư tăng quyết định mới thành tựu, đó gọi là Yết ma. Yết ma có đan bạch, bạch nhị và bạch tứ. Đan bạch là gặp những việc quá thường xuyên thì chỉ cần 1 lần tuyên cáo (tác bạch) mà thôi, không cần hỏi lại. Bạch nhị là gặp những việc hơi quan trọng, sợ xảy bất đồng ý về sau, nên phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 1 lần. Bạch tứ là gặp những việc quan trọng thì phải 1 lần tuyên cáo rồi hỏi lại 3 lần. Tăng Yết ma có 4 loại, đó là 4 vị cho đan bạch, 5 vị cho bạch nhị, 10 vị cho bạch tứ, 20 vị cho sự xử tội tăng tàn. Số lượng này nhiều hơn thì được, thiếu đi thì không được.

Ghi Chú (41)

Đáng lẽ phải nói 3 y có cái cũ và hỏng. Nguyên do của giới này là vì có Tỳ kheo y Tăng già lê bị cũ và hỏng.

Ghi Chú (42)

Dịch sát và đủ, là nhận y của Tỳ kheo ni không phải thân quyến của mình.

Ghi Chú (43)

Dịch sát và đủ, là bảo Tỳ kheo ni không phải thân quyến của mình giặt giúp y cũ. Y cũ là y dầu mới mặc 1 lần.

Ghi Chú (44)

Dịch sát và đủ, là xin y nơi người cư sĩ không phải thân quyến.

Ghi Chú (45)

Dịch đủ và sát, là khuyên cư sĩ thêm giá tiền may y.

Ghi Chú (45b)

Lời xin tùy ý là thí chủ có lời xin nói trước rằng người lãnh nhận muốn sao cũng được.

Ghi Chú (46)

Dịch sát và đủ, là khuyên 2 nhà tăng thêm số tiền sắm y.

Ghi Chú (46b)

Có người hiểu và dịch 2/4 màu đen, 1/4 màu trắng, 1/4 màu lẫn lộn, nhưng không thể đồng ý là vì có chữ trái chính văn, và trộn lẫn lông dê như vậy thì cũng gần như đen. Dịch đúng chính văn là như đã dịch, và trộn lẫn lông dê như vậy thì sẽ ra hoại sắc hơn.

Ghi Chú (47)

Dịch sát và đủ, là ngọa cụ dùng dưới 6 năm.

Ghi Chú (48)

Dịch sát là tọa cụ không may chồng.

Ghi Chú (49)

Dịch sát là cầm lông dê quá hạn.

Ghi Chú (50)

Dịch sát và đủ là bảo Tỳ kheo ni không phải thân quyến giặt giúp lông dê.

Ghi Chú (51)

Dịch sát là cất giữ tiền, của báu.

Ghi Chú (52)

Dịch đủ là đổi chác tiền, của báu.

Ghi Chú (53)

Chính văn là mại mãi (bán mua) thì không chỉnh.

Ghi Chú (53b)

Trường bát, có ý kiến nói là bát dư thừa.

Ghi Chú (53c)

Chính văn là tối hạ, có người hiểu là bát cuối cùng, tức cái bát không ai muốn lấy, muốn đổi, nên cái bát ấy có thể chính là cái bát mới, được đem ra xả bỏ đó. Hiểu như vậy không đúng, bởi vì giới này bên Tỳ kheo ni nói rõ là hạ tọa (người dưới).

Ghi Chú (54)

Dịch đủ là xin chỉ sợi, bảo thợ dệt không phải thân quyến của mình dệt giúp.

Ghi Chú (55)

Dịch đủ là bảo thợ dệt dệt thêm chỉ sợi.

Ghi Chú (56)

Dịch sát và đủ là cất thuốc 7 ngày dùng quá thì hạn.

Ghi Chú (57)

Dịch sát và đủ, là kiếm khăn tắm mưa trước thì hạn, dùng khăn tắm mưa trước thì hạn. Khăn tắm mưa, chính văn là vũ y hay vũ dục y (khăn tắm mưa). Chữ y trong Luật có chỗ là y, có chỗ là vải, có chỗ là khăn. Ở đây là khăn.

Ghi Chú (58)

Mùa xuân còn 1 tháng là từ 16/3 đến 15/4. Mùa xuân còn nửa tháng là 1/4 đến 15/4. Trước kiết hạ hơn 1 tháng là trước 16/3. Trước kiết hạ hơn nửa tháng là trước 1/4. Tất cả đều là âm lịch.

Ghi Chú (59)

Dịch đủ và sát là trước ngày hết kiết hạ nhận y cúng gấp mà cất quá sau ngày hết kiết hạ.

Ghi Chú (60)

Dịch sát là 10 ngày chưa hết của 3 tháng kiết hạ; 10 ngày ấy là từ 6/7 đến 15/7.

Ghi Chú (61)

Thì hạn của y ấy, y ấy là y cúng vội vàng nói trên; thì hạn của y ấy là 1 tháng (16/7 đến 15/8) nếu không thọ công đức y, hoặc 5 tháng (16/7 đến 15/12) nếu có thọ công đức y.

Ghi Chú (62)

Dịch sát và đủ là ở chỗ a lan nhã có sự nghi ngại mà rời y quá thì hạn.

Ghi Chú (63)

Là rằm tháng 7 đến rằm tháng 8.

Ghi Chú (64)

A lan nhã là chỗ thanh vắng, xa làng xóm.

Ghi Chú (65)

Nói rõ là xoay vật người ta muốn cúng cho chư tăng mà cúng cho mình.