DUYÊN KHỞI – Tâm Huy – Huỳnh Kim Quang

duyen khởi

I. DẪN NHẬP:

Sau những năm tháng thực hành khổ hạnh dù thân xác ngày càng gầy yếu suy nhược mà vẫn chưa tìm ra được cứu cánh đích thực giác ngộ và giải thoát, Thái tử Tất Đạt Đa đã quyết định từ bỏ con đường khổ hạnh ép xác và chọn phương thức trung đạo để tu tập. Chính vì thế, Ngài đã đến sông Ni Liên Thuyền, tắm gội sạch sẽ và thọ nhận sự cúng dường thức ăn của đàn việt, rồi đi đến dưới gốc cây Tất Bát La để tĩnh tọa. Trải cỏ và ngồi thiền định dưới gốc cây cổ thụ này, Thái tử Tất Đạt Đa đã phát đại thệ nguyện phải mở tung cánh cửa của tâm thức để giác ngộ vô minh và giải thoát phiền não khổ đau.

Đức Phật đã quán nghiệm: Sở dĩ có già, bệnh và chết là bởi vì có sự hiện hữu của thân ngũ uẩn. Sự có mặt của thân ngũ uẩn bắt nguồn từ sự thọ thai, hệ quả của sự đắm trước vào ái dục. Nhưng ái dục dựa vào đâu mà sinh khởi? Nó dựa vào sự thỏa mãn dục vọng trong cảm thọ khổ vui do xúc chạm của sáu căn với sáu trần. Căn và thức tồn tại dựa trên tập hợp của năm uẩn chính là danh và sắc của một giả hữu được phát sinh nhờ tập khí của phiền não vô minh trong vô lượng vô số kiếp mà thời gian khởi đầu như không còn có thể tính đếm được nữa.

Vì thế, vô minh là đầu mối căn cội của sinh tử khổ đau và ái dục là nhân duyên cho sự có mặt của một thân xác ngũ uẩn chất chứa nhiều phiền não. Do đó, muốn chấm dứt vòng sinh tử triền miên thì phải phá tung thành trì của vô minh, muốn kết thúc sự thọ sanh thì phải diệt trừ ái dục. Vô minh diệt thì sinh tử diệt, ái dục hết thì không còn thọ sinh, như củi hết lửa tắt. Như vậy đức Phật đã đi sâu vào đại định và chứng tam minh, lục thông khi sao mai vừa mọc. Ngài đã thành tựu quả vị Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Một hôm, Tỳ kheo Mã Thắng (A Thuyết Thị), một trong năm vị đệ tử xuất gia đầu tiên của đức Phật ở vườn Lộc Uyển, đi khất thực gặp ngài Xá Lợi Phất, lúc đó là một thanh niên đang thao thức đi tầm sư học đạo. Ngài Xá Lợi Phất thấy tướng mạo oai nghiêm sáng rỡ của tỳ kheo Mã Thắng mà khởi tâm kính ngưỡng nên đến tham vấn về con đường đạo nghiệp. Tỳ kheo Mã Thắng nhân đó diễn bày nội dung giáo pháp giác ngộ của bậc Đạo Sư mà ngài đang thọ học trong bài kệ như sau:

Chư pháp tùng duyên sinh,
Diệc phục tùng duyên diệt.
Ngã Phật đại Sa môn,
Thường tác như thị thuyết.
Dịch: Các pháp từ duyên sinh
Cũng do duyên mà diệt.
Thầy tôi Đại Sa Môn,
Thường dạy điều như thế.

Khi nghe tỳ kheo Mã Thắng nói bài kệ này, ngài Xá Lợi Phất toàn thân rúng động, tâm thức được mở tung ra, thấu triệt ngay vào chân lý huyền nhiệm chi phối toàn thể vũ trụ vạn pháp, trong đó có thân ngũ uẩn của con người. Ngài Xá Lợi Phất tức thì chứng nhập được vào trong Kiến đế đạo. Cho nên, ngài Xá Lợi Phất quyết định đi đến chỗ đức Phật để xin xuất gia.

Đức Phật do giác ngộ lý duyên khởi mà thành tựu đạo quả Bồ đề, do vậy, giáo nghĩa duyên khởi là cốt tủy trong toàn bộ giáo lý của Ngài. Giáo nghĩa duyên khởi có mặt bàng bạc trong các Kinh điển từ Nguyên thỉ sang thời đại Bộ phái và sau đó là Đại thừa. Ở đây xin trích dẫn một vài chứng liệu để cho thấy rõ điều ấy. Trước hết là một đoạn trong Kinh Tạp A Hàm, đức Phật dạy:

Thế nào là nguyên lý duyên khởi? Nghĩa là do duyên với vô minh mà hành khởi sinh, v.v.., dù Phật có ra đời hay không ra đời, nguyên lý ấy vẫn thường trú, vẫn an trú trong pháp giới. Như Lai tự mình chiêm nghiệm nguyên lý ấy để giác tri, để thành tựu Vô Thượng Bồ Đề, rồi tuyên thuyết, rồi khai thị, rồi hiển phát cho mọi người. (Kinh Tạp A Hàm, quyển 12, trang 84, ĐTK2, Thích Đức Thắng Việt dịch, Thích Tuệ Sỹ hiệu đính và chú thích).

Trong Kinh Pháp Hoa, Phẩm Phương Tiện thứ 2, đức Phật dạy:

Chư Phật Lưỡng Túc Tôn,
Tri pháp thường vô tánh,
Phật chủng tùng duyên khởi,
Thị cố thuyết Nhất thừa.
Dịch: Chư Phật là bậc tôn quý trong loài trời và người,
Liễu tri các pháp không có tự tánh,
Giống Phật từ duyên mà khởi,
Cho nên, nói đạo Nhất thừa.
Trong Luận Trung Quán, Phẩm Quán Tứ Đế thứ 24, Bồ tát Long Thọ viết:
Thị cố Kinh trung thuyết,
Nhược kiến nhân duyên pháp,
Tốc vi năng kiến Phật,
Kiến Khổ, Tập, Diệt, Đạo.
Dịch: Cho nên, trong Kinh nói:
Nếu thấy pháp nhân duyên,
Thì mau chứng Phật quả,
Chứng Khổ, Tập, Diệt, Đạo.

II. ĐỊNH DANH NGHĨA:

1. ĐỊNH DANH:

Duyên khởi tiếng Pàli là: Paticcasamuppàda

Tiếng Phạn là: Pratityasamutpàda. Pratitya (hay Pàli: Paticca) có nghĩa là tùy thuộc vào, dựa vào, là duyên; Samutpàda (hay Pàli: Samuppàda) có nghĩa là đứng dậy, khởi sinh, là khởi.

Các nhà Phật học Trung Hoa dịch nghĩa là Duyên khởi. Duyên có nghĩa là nương nhau, là điều kiện để điều gì đó thành tựu; khởi là sinh khởi, là phát khởi. Duyên khởi có khi cũng gọi là Duyên sinh.

Như vậy, Duyên khởi tức là do nương nhau, tùy thuộc vào nhau mà sinh khởi, hay nói cách khác là do duyên, do các điều kiện tập hợp lại mà các pháp sinh khởi.

2. BA YẾU NGHĨA CỦA DUYÊN KHỞI:

Ở đây chúng ta cần thấy rõ một điều là duyên khởi không phải là quy luật, điều luật hay phạm trù từ bên ngoài áp đặt lên các pháp. Chính sự sinh thành và hoại diệt của các pháp tự nó mang ý nghĩa duyên khởi. Đức Phật do trí tuệ giác ngộ bản thể của vạn hữu nên liễu tri được sự thật về ý nghĩa duyên khởi này và Ngài đã đem chỗ thực chứng của Ngài để khai thị cho chúng sinh. Qua đó chúng ta thấy có ba yếu nghĩa của duyên khởi như sau:

1. Thường tại: Vì sự sinh thành và hoại diệt của tự thân các pháp mang ý nghĩa duyên khởi, cho nên, duyên khởi chính là yếu tính của các pháp, các pháp chính là duyên khởi. Nơi nào có sự sinh thành và hoại diệt của các pháp thì nơi đó có duyên khởi. Như thế, duyên khởi thường tại như là các pháp thường tại. Cho dù có đức Phật ra đời khai thị hay không thì các pháp vẫn có đó, duyên khởi vẫn có đó. Thường tại ở đây không phải là thường hằng bất biến theo ý nghĩa thực có chủ thể mà là sự hiện hữu trong vận hành dịch biến liên tục vốn không có tự tánh.

2. Tất yếu: Các pháp do duyên hòa hợp mà sinh, do duyên ly tán mà diệt. Chính vì vậy, không thể có sự kiện rằng không có duyên mà các pháp hiện khởi. Các pháp không thể tự hiện khởi, vì không một pháp nào tự nó có thể đơn độc sinh thành, tất cả các pháp đều do các duyên hòa hợp mà thành, một pháp cũng vậy, muôn pháp cũng vậy. Cho nên, duyên khởi là yếu tính ắt có trong tất cả các pháp. Nói đến sự có mặt của pháp là phải nói đến sự có mặt của duyên khởi.

3. Y tha: Y tha tức là nương vào, dựa vào, tùy thuộc vào cái khác. Một pháp sinh khởi là do nhiều pháp hợp lại mà thành. Nếu pháp không thể hợp lại, không tùy thuộc vào nhau thì không thể sinh khởi ra pháp nào cả. Thí dụ, nước là do Hydrogen và Oxygen (H2O) kết hợp lại mà thành. Trong hợp chất nước này bắt buộc Hydrogen và Oxygen phải nương vào nhau, tùy thuộc vào nhau mới có thể hình thành được. Nếu chúng không hòa hợp được, nghĩa là không nương vào nhau, không tùy thuộc vào nhau được thì nước không sinh ra. Nhưng khi Hydrogen và Oxygen hòa hợp lại làm một để thành nước thì cả hai đều không còn có thể giữ nguyên tự thể riêng của chúng nữa, điều ấy cũng chứng minh rằng chúng không có tự tánh. Từ yếu nghĩa này chúng ta có thể nhìn thấy được ba diệu nghĩa phổ quát khác của duyên khởi sau đây:

a. Không:

Các pháp do duyên mà sinh khởi, cho nên, ngoài sự hòa hợp của duyên ra, pháp không có chủ thể, không có tự tánh. Ngay chính các duyên cũng chỉ là một tập hợp khác của những duyên khác nữa. Thí dụ, thân thể con người là do năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức hợp lại mà thành. Năm uẩn này là các duyên tập hợp để hình thành thân xác. Nhưng chính mỗi uẩn cũng do nhiều duyên khác tập hợn mà có. Thí dụ, sắc uẩn là do bốn đại: đất, nước, gió và lửa tập hợp mà có. Rồi trong bốn đại này, chẳng hạn là đất, thì cũng do các duyên hòa hợp mà tạo nên, v.v.. Rốt cuộc, các pháp tự thân là không có tự thể, là KHÔNG. Tính Không này có mặt ngay trong lúc các pháp dang hiện tiền, nghĩa là Không trong cái đương thể, chứ không phải không có pháp mà pháp là Không.

b. Giả:

Các pháp đang hiện hữu, nhưng hiện hữu mà chỉ có tướng giả hợp bề ngoài, hiện hữu mà không có thật thể. Vậy tức là giả hữu, tức là có mặt một cách tạm bợ, đó là Giả. Bởi giả, cho nên các pháp không tồn tại thường hằng bất biến mà luôn luôn biến dị, vô thường, sinh diệt.

Tri thức phàm phu chỉ bám vào cái danh của pháp để khởi nhận thức, chứ không thể nhập vào thật tánh để liễu ngộ. Cái danh được xây dựng trên tâm thức vọng động, phân biệt và phan duyên vốn là thuộc tính của vô minh. Cái danh là do chúng sinh đặt để cho pháp. Khi đặt để cái danh cho pháp, thì đối với chúng sinh, danh biểu thị cho pháp, biểu thị cho cái thực của pháp.

Từ đó, chúng sinh nhận thức pháp qua cái danh. Thực ra, với tâm thức vô minh vọng động và phân biệt, chúng sinh chưa hề có thể thể nhập được vào bản thể của pháp, bởi vì chính tâm thức vô minh là tấm chắn che đậy chân thân của pháp. Cái danh xây dựng trên vô minh này là giả danh.

c. Trung:

Nếu cho rằng các pháp là Không, vậy thì tại sao chúng ta vẫn tri giác có các pháp, có chúng sinh, có thế giới, có vũ trụ, có phiền não, có khổ vui, có bồ đề, có thiện ác? Nhưng, nếu cho rằng các pháp là thật Có thì tại sao tất cả các pháp đều vô thường, biến dị, sanh diệt, không có tự tánh?

Cái thấy các pháp như là thật có chúng sinh, có vũ trụ, có thế giới, có phiền não, có khổ vui, có bồ đề, có thiện ác, v.v.., cũng như, thấy các pháp là như thật có vô thường, biến dị, sinh diệt, v.v.., đó là cái thấy thuộc bình diện tương đối, là cái thấy còn hệ phược bởi tâm phân biệt nhị biên, bởi vô minh chưa dứt sạch, chưa phải là chân thật trí tuệ.

Đức Phật vì muốn độ hạng người cố chấp vào thường kiến, cho là có thật ngã thật pháp, cho nên, dạy rằng các pháp do duyên khởi, không thật có chủ thể, không có tự tánh, là Không. Đức Phật lại vì độ hạng người cố chấp vào đoạn kiến, cho rằng các pháp vốn hoại diệt rồi là hết sạch, không có nhân quả, không có đời sau, không có thiện ác, v.v.., cho nên, đã dạy rằng các pháp do duyên khởi, trên bình diện thế đế thì không phải hoàn toàn tuyệt diệt, mà là giả hữu, nghĩa là tồn tại theo năng lực của vô minh phiền não và hành nghiệp ở dạng thức vô thường biến dịch không ngừng, như ngọn lửa do sức xoay mà xem như thật có một vòng lửa hiện hữu thường trực.

Chính vì thế, dù là dạy các pháp giả hữu hay là không, đức Phật cũng chỉ có một mục đích duy nhất đó là phá giả tướng để hiển bày chân tánh, nương thế đế để dìu dắt chứng nhập trung đạo đệ nhất nghĩa đế. Trung đạo đệ nhất nghĩa đế chính là cảnh giới tự chứng của Thánh trí, mà tri thức vô minh của phàm phu không thể liễu đáo. Vì vậy, trong Luận Trung Quán, Phẩm Quán Tứ Đế thứ 24, Bồ tát Long Thọ đã viết:

Chúng nhân duyên sinh pháp,
Ngã thuyết tức thị Không,
Diệc vi thị Giả danh,
Diệc thị Trung đạo nghĩa.
Dịch: Các pháp do nhân duyên sinh,
Tôi nói đó là Không,
Cũng gọi là Giả danh,
Cũng chính là Trung đạo đệ nhất nghĩa.

Trung đạo đệ nhất nghĩa đế lìa xa mọi hý luận, xả ly mọi cố chấp về có và không, bặt dứt mọi vọng niệm. Ở đệ nhất nghĩa đế, chân thân của vạn hữu không còn là đối tượng khả tri của vọng tâm duyên tướng, hay cụ thể hơn không còn là cái giả danh được tác tạo bởi tri kiến do vô minh điều động.

Diệu dụng của đệ nhất nghĩa đế được hiển bày qua trí tuệ bát nhã thấu triệt bản thể của vạn pháp không phải có cũng chẳng phải không, cấp độ mà trong Kinh Luận thường gọi là ly tứ cú, tuyệt bách phi, hay ngôn ngữ đạo đoạn, tâm hành xứ diệt.

III. TỨ DUYÊN:

Để nhận thức rõ hơn về ý nghĩa và vai trò của Duyên đối với các pháp, các luận sư Phật giáo đã giải thích bốn loại duyên như sau:

1. Nhân Duyên (Pratyayàhetu):

Các pháp sinh khởi là do quan hệ nhân và duyên. Nhân là yếu tố chính để sinh ra pháp. Duyên là yếu tố phụ hỗ trợ cho chính nhân để pháp sinh ra. Như hạt lúa giống là nhân, đất nước phân bón thời tiết là duyên để cho cây lúa sinh ra. Cả hai nhân và duyên đều cùng tương quan tùy thuộc vào nhau để làm cho pháp sinh khởi. Theo Luận Trung Quán của Bồ Tát Long Thọ thì tương quan nhân duyên này áp dụng cho tất cả pháp hữu vi.

2. Đẳng Vô Gián Duyên hay Thứ Đệ Duyên (Anantara Pratitya):

Duyên làm cho pháp sinh khởi liên tục không gián đoạn. Tức là cái duyên tác trợ cho pháp này sinh và cũng làm duyên cho pháp khác sinh khi pháp này diệt, cứ thế liên tục không gián đoạn. Theo Ngài Long Thọ trong Luận Đại Trí Độ thì loại duyên này chỉ cho tâm tâm số pháp của sinh hoạt tâm lý, vì trong sinh hoạt tâm thức, ý niệm này sinh diệt rồi ý niệm khác sinh diệt, cứ thế thứ lớp sinh khởi không ngừng, ngoại trừ tâm số pháp tối hậu của vị A La Hán, vì vị A La Hán khi vượt qua tối hậu tâm thì nhập vào trạng thái tâm bất động, tâm không còn sinh diệt biến dị như pháp hữu vi nữa.

3. Sở Duyên Duyên (Alambana Pratitya):

Duyên làm đối tượng cho pháp nương tựa vào để sinh khởi. Pháp không tự mình sinh khởi được, cho nên phải nương tựa vào pháp khác để phát sinh, pháp làm đối tượng cho pháp khác bám vào, nương vào để sinh khởi thì chính là sở duyên duyên. Duyên này phổ cập đối với tất cả các pháp sắc và tâm.

4. Tăng Thượng Duyên (Adhipateyam Pratitya):

Duyên trợ lực cho pháp sinh khởi và tồn tại. Duyên này cũng có mặt trong hết thảy pháp. Ngược lại với tăng thượng duyên là những nghịch duyên làm trở ngại cho các pháp khởi sinh và tồn tại. Như thiện pháp là thuận tăng thượng duyên cho hạt giống bồ đề sinh trưởng, ngược lại ác pháp là nghịch duyên làm trở ngại sự sinh trưởng của hạt giống bồ đề.

IV. NGŨ CHỦNG DUYÊN KHỞI:

Các nhà tư tưởng Phật học căn cứ trên giáo nghĩa Duyên khởi trong các Kinh Luận của các bộ phái, các tông phái đã đề xuất ra năm loại giáo thuyết Duyên khởi như sau:

1. Nghiệp Cảm Duyên Khởi:

Giáo nghĩa này thuộc hệ thống A Tỳ Đàm, vì một trong những tư tưởng trọng yếu của A Tỳ Đàm là lý thuyết về nghiệp, đặc biệt là trong A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, Đại Luận sư Thế Thân đã diễn giải rất tinh tường về quan điểm nghiệp. Nghiệp, dù là trong giai đoạn nào: gia hạnh nghiệp đạo, căn bản nghiệp đạo, hay hậu căn bản nghiệp đạo, đều được khởi sinh trong ý nghĩa tương quan tương duyên của duyên khởi.

Điều đó có nghĩa là một ý niệm, một lời nói, hay một hành động dẫn đến kết nghiệp đều không thể tự nó sinh khởi độc lập mà không nương tựa, tùy thuộc hay tương quan đến bất cứ pháp nào khác. Chẳng hạn, một ý niệm dù đơn thuần cách mấy cũng phải có mặt của một thân xác ngũ uẩn, sự hoạt động của ý thức, kinh nghiệm của xúc đang hiện tiền hay đã trải qua, trần cảnh dù là trong trạng thái độc ảnh cảnh, v.v..

Trong quá trình từ nghiệp nhân đến nghiệp quả, yếu tố duyên vô cùng quan trọng, vì nếu thiếu duyên thì ngay cả nghiệp nhân cũng không thể hình thành huống gì đến nghiệp quả. Thí dụ, trong giai đoạn căn bản nghiệp đạo, hai yếu tố biểu sắc và vô biểu sắc đóng vai trò là những duyên quyết định then chốt, vì mọi hành động đều phải dựa vào động tác của biểu sắc để khởi sinh, sau khi biểu sắc khởi tác động biểu nghiệp thì vô biểu sắc có nhiệm vụ hình thành vô biểu nghiệp để duy trì và dẫn đến nghiệp quả. Không phải chỉ có sự hiện hữu của chánh báo mới bị chi phối bởi nghiệp, sự có mặt của y báo chung quanh chúng sinh cũng do nghiệp chiêu cảm.

2. A Lại Da Duyên Khởi:

Quan điểm về nghiệp của A Tỳ Đàm vẫn chưa nêu bậc vai trò quyết định trọng yếu của yếu tố tâm thức, mặc dù trên thực tế hành nghiệp tâm thức chính là yếu tố hàng đầu không thể thiếu vắng. Như Kinh Pháp Cú, Phẩm Song Yếu, kệ số 1, đức Phật dạy: Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm là chủ, tâm tạo tác tất cả……..

Chính vì vậy, các vị Đại Luận sư của hệ thống giáo nghĩa Duy Thức đã soi sáng chức năng trọng đại của thức A Lại Da trong việc hình thành và duy trì sự tồn tại của căn thân và thế giới. Giáo nghĩa này đã được nói đến trong Kinh Giải Thâm Mật, Luận Du Già Sư Địa, Duy Thức Tam Thập Tụng, Thành Duy Thức, v.v..

A Lại Da là thức thứ tám tính theo thứ tự của tám thức tâm vương. Thức A Lại Da được hình thành bởi sự huân tập của chủng tử qua sinh hoạt của thức, căn thân và đối cảnh, nó tồn tại dưới dạng thức năng lực sinh diệt không ngừng nghỉ, không bị gián đoạn dù là một sát na tâm, cho đến khi chứng nhập A La Hán quả hay Đệ bát Bất Động Địa. Như vậy, sự hình thành và tồn tại của A Lại Da là do duyên chứ nó không thể tự sinh tồn.

Mặt khác, căn thân và thế giới hay chánh báo và y báo mà chúng sinh đang có là nương vào thức A Lại Da mà sinh khởi và tồn tại, hay nói rõ hơn trong sinh hoạt tác nghiệp của chúng sinh vốn đã huân tập những chủng tử là nền tảng cơ bản để hình thành căn thân và thế giới được thức A Lại Da duy trì cho đến khi hiện khởi.

3. Chân Như (Như Lai tạng) Duyên Khởi:

Nếu A lại da là nguồn cội duy trì và phát sinh của căn thân và thế giới, thì chính A lại da cũng là pháp bị chi phối bởi duyên khởi, có nghĩa là A lại da cũng vô thường, biến dị, sinh diệt không ngừng. Nhưng mà một pháp vô thường biến dị không thể tự sinh, vậy thì A lại da do đâu mà khởi, cái gì là căn nguyên của nó? Nếu pháp giới chỉ toàn là pháp sinh diệt biến dị thì đâu là chân thân thường tại không khứ không lai?

Hệ thống giáo nghĩa Chân như duyên khởi ra đời nhắm vào trọng tâm diễn giải một cách đầy đủ căn nguyên và sự hiện hữu của cả hai bình diện chân như và sinh diệt mà đại biểu chính là Kinh Lăng Già, Kinh Thắng Man, Luận Đại Thừa Khởi Tín của Bồ tát Mã Minh.

Như Lai Tạng là thai tạng giới cưu mang cả chân như và pháp sinh diệt. Bất giác vô minh thì pháp sinh diệt khởi sinh. Trực ngộ chân tánh thì chân như hiển lộ. Nương vô minh nên các pháp tiếp tục huân tập chủng tử sinh diệt, rồi điên đảo hư vọng trôi lăn trong ba cõi sáu đường.

Quy về chân tánh, phản tác tự kỷ, liễu ngộ nguồn chơn, như thật hướng tâm về chánh giác, dứt trừ vọng niệm, xả bỏ tác nghiệp điên đảo, thì chấm dứt vòng sinh tử khổ não. Cho nên, chơn hay vọng, giác hay mê đều từ một nguồn gốc mà ra, rồi cũng về cùng một nơi chốn. Nơi chốn ấy chính là Như lai tạng tâm, vốn bất sinh bất diệt, không khứ không lai, đầy đủ trí đức không hề suy giảm.

4. Lục Đại Duyên Khởi:

Các nhà Mật tông cho rằng pháp giới được tựu thành do sáu duyên lớn: Địa, thủy, hỏa, phong, không và thức. Địa, thủy, hỏa, phong và không là những duyên hình thành sắc pháp.

Thức chính là tâm pháp. Về mặt pháp tướng thì lục đại xem như có sự sai biệt trên dạng thức hiện hữu, nhưng về mặt pháp tánh thì lục đại dung thông vô ngại, nghĩa là ở trong pháp giới lục đại đều có mặt khắp cả mà không hề trái chống nhau, cho nên, mới có sự tựu thành kỳ diệu của tất cả các pháp từ hữu tình đến vô tình. Cũng trên mặt pháp tính, Phật và chúng sinh vốn bình đẳng không sai biệt.

5. Pháp Giới Duyên Khởi:

Các pháp đã do duyên mà hiện khởi thì ắt phải có mối tương quan tương duyên chặc chẽ nhau, và nếu có thể dò tìm mối liên hệ duyên khởi này thì chắc chắn có thể thấy được sự tương liên tương hệ rộng lớn bao la không cùng. Thí dụ, một chúng sinh hiện hữu là do nhiều duyên, trong đó có cha mẹ, ông bà, giòng họ huyết thống của nhiều đời nhiều kiếp, có các duyên như thức ăn, quần áo mặc, nước uống, nhà cửa ở, trường học, sở làm, bạn bè thân thích, truyền thống văn hóa, giáo dục, đạo đức, tôn giáo, tín ngưỡng, tập tục của quốc gia sinh trưởng, những ảnh hưởng của xã hội về mặt văn hóa, giáo dục, kinh tế, chính trị, tôn giáo, v.v..

Nếu chúng ta có thể vẽ hết các duyên sinh thành và tồn tại của một pháp lên trên mảnh giấy thì mảnh giấy đó nhất định phải rộng lớn như pháp giới về mặt thời gian và không gian, mới có thể diễn bày được hết mối tương quan tương duyên mà pháp đó đã có, đang có và sẽ có.

Cho nên, sự hiện hữu của một pháp trong ý nghĩa duyên khởi chính là mối tương quan tương duyên trùng trùng vô tận trong pháp giới. Một pháp như thế, tất cả pháp cũng như thế. Vì vậy pháp giới là một màng lưới tương quan tương duyên không cùng tận trong thời gian và không gian. Giáo nghĩa này đã được phô diễn đến chỗ tinh mật trong Kinh Hoa Nghiêm và về sau trong Tông Hoa Nghiêm. Trong Kinh Duyên Khởi Pháp, số 299, của Tạp A Hàm, đức Phật dạy:

Thử hữu cố bỉ hữu, thử sinh cố bỉ sinh.

Pháp này có cho nên, pháp kia có, pháp này sinh cho nên, pháp kia sinh.

V. DIỆU DỤNG CỦA DUYÊN KHỞI:

Đức Thế Tôn nhờ quán nghiệm đạo lý duyên khởi mà giác ngộ bản thể của vạn hữu, chứng đạt quả vị Phật đà tối thượng. Nội dung giác ngộ mà đức Phật đã chứng nhập ấy bao gồm trí giác quán chiếu vào cội nguồn vô minh hành nghiệp và vòng tử sinh bất tận mà chúng sinh bị trói buộc.

Nội dung giác ngộ ấy cũng là ánh sáng trí tuệ siêu việt rọi chiếu vào tận căn nguyên của nhận thức, vũ trụ, nhân sinh và đặc biệt mở ra con đường giải thoát khổ đau cho tất cả muôn loài.

1. Nhận thức:

Nhận thức là cánh cửa mà con người mở ra để nhìn vào khung trời thế giới chung quanh, cho nên, giới hạn của nhận thức cũng chính là giới hạn của thế giới. Qua tầm nhìn của một con ếch ở đáy giếng thì vũ trụ không lớn hơn cái miệng giếng là bao Nihau. Cũng vậy, thế giới mà một hữu tình chúng sinh có thể nhận thức được không vượt quá mấy khung cửa của sáu căn trông ra cảnh giới của sáu trần.

Hành nghiệp của tri giác ấy huân tập từ đời này sang đời khác, từ kiếp này sang kiêáp khác, từ cảnh giới này sang cảnh giới khác đã tích tụ thành tập khí tiên thiên tiêm nhiễm vào tận đáy sâu của tâm thức, ươm mầm cho vô lượng chủng tử hữu lậu phát sinh. Chính vì vậy, dưới nhận thức của hữu tình chúng sinh các pháp vốn là hữu ngã, nghĩa là thật có, thật hữu, thật tánh.

Nhưng đó chỉ là nhận thức bị chi phối bởi vô minh và hành nghiệp lâu đời lâu kiếp khiến cho chúng sinh khó có thể trực nhận được chân tánh của các pháp là gì mà chỉ chấp vào giả tướng hư vọng cho là thật. Sự thực thì các pháp do duyên mà khởi sinh, cho nên không một pháp nào có thật tánh, có thật ngã. Nhận thức được các pháp do duyên khởi, không có tự tánh là một bước thay đổi lớn lao trong tiến trình chuyển hóa tâm thức và khai mở trí tuệ của một chúng sinh.

Trên nền tảng quán chiếu của trí tuệ y tha khởi này, chúng sinh đã có thể liễu ngộ được hai mặt của thực tại: Mặt thứ nhất, nhìn thấu suốt bản chất của các pháp thuộc thế giới tục đế chỉ là do duyên mà giả hữu, không thật có tự tánh, cho nên có thể trút bỏ mọi biến kế chấp, mọi tham đắm, mọi triền phược và giải thoát mọi khổ não. Mặt thứ hai, giải ngộ từng phần (phần chứng) hay toàn phần (toàn phần chứng) cảnh giới của đệ nhất nghĩa đế cho nên có thể cảm nghiệm được bóng dáng viên thành thật của vạn pháp vốn nằm ngay trong cái vô tự tánh của vạn hữu, vô tánh chính là thật tánh. Cho nên trong Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật Đa, đức Phật dạy:
Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai.
Dịch: Nếu thấy được bản thể vô tướng của các pháp, tức là thấy được Như Lai.

2. Vũ trụ:

Với duyên khởi, các pháp không tồn tại độc lập, không thể tự hữu mà không nương vào các pháp khác. Do vậy, không thể có một nguyên nhân độc nhất nào, một năng lực siêu nhiên duy nhất nào có khả năng tác tạo ra vũ trụ. Thế giới mà con người đang sống không phải là thế giới duy nhất mà chỉ là một hạt bụi nhỏ trong vũ trụ rộng lớn bao la không ngằn mé.

Trong vũ trụ bao la ấy, sự sinh khởi, tồn tại và hoại diệt của thế giới này chính là nhân, là duyên cho sự sinh khởi, tồn tại và hoại diệt của những thế giới khác. Sự hiện hữu của một thế giới hay rộng hơn nữa một Phật sát là mối tương quan tương duyên vô cùng của hành nghiệp và thệ nguyện của tất cả vô tình và hữu tình chúng sinh trong thế giới ấy hay trong Phật sát ấy.

Trong vũ trụ vô biên kia hiện có biết bao nhiêu thế giới đang sinh và diệt. Trong vô số thế giới ấy có biết bao nhiêu chủng loại chúng sinh đang ra đời hoặc già chết. Nhưng trong số những chúng sinh đó cũng có những chúng sinh đang thành tựu mục đích tối thượng của cuộc tồn sinh, đó là phá tan xiềng xích của vô minh phiền não để giác ngộ chân tánh và giải thoát mọi khổ đau.

Qua ánh sáng của duyên khởi, chúng sinh không chỉ nhìn thấy mối tương quan tương duyên trong phạm vi một thế giới nhỏ mà mình đang có mặt, nó còn nhìn thấy được mối tương quan tương duyên rộng khắp trong vũ trụ. Từ đó, chúng sinh ấy mở tâm và trí ra bên ngoài vũ trụ bao la, quan tâm, cảm nhận và chia sẻ những đổi thay của vũ trụ, những khổ vui của vô lượng chúng sinh khác. Tâm ấy là tâm đại từ bi. Trí ấy là trí đại giác ngộ. Phật sát hình thành khi một chúng sinh hưng phát và thành tựu đại Bồ đề tâm.

Trong phạm vi của thế giới mà con người đang sống mỗi hành nghiệp của mỗi người đều có mối tương quan tương duyên với khắp cả cộng đồng nhân loại. Một người tác nghiệp bất thiện sẽ gây ra bao nhiêu bất an cho thế giới, ngược lại một người thực hiện thiện nghiệp sẽ mang lại vô số điều lợi lạc cho nhân quần. Một quốc gia không thể tồn tại và phát triển nếu tách rời khỏi phần còn lại của thế giới. Cộng đồng nhân loại ngày nay đang cùng nhau chia xẻ những vấn đề của thời đại không còn mang tính đặc dị hay địa phương mà hoàn toàn có tính phổ quát qua các lãnh vực văn hóa, giáo dục, đạo đức, tôn giáo, kinh tế, chính trị, v.v..

3. Nhân sinh:

Trong vũ trụ, mọi sự mọi vật đều do duyên mà sinh thì con người cũng vậy do duyên mà có mặt. Duyên gần có thêå thấy trong đời này là ông bà cha mẹ, duyên xa trong qúa khứ là những hành nghiệp bị chi phối bởi vô minh và ái dục. Vì thế, sự có mặt của con người là do chính nhân duyên mà con người tạo ra chứ không phải do bất cứ một quyền năng siêu nhiên nào khác tác tạo.

Con người vây kết ái nghiệp cho nên bị trói buộc trong vòng tử sinh. Con người tự tạo ác nghiệp cho nên phải chiêu cảm quả báo khổ não. Như vậy, con người nếu không gây kết ái nghiệp, không tạo ra điều bất thiện thì chắc chắn chấm dứt vòng sinh tử và thoát ly mọi đau khổ.

Duyên tự nó vốn không có tự tánh, cho nên, con người có thể chuyển hóa các duyên để điều hướng lộ trình thăng hoa của đời sống. Khi liễu giải được ý nghĩa đó, con người cũng đồng lúc hiểu rõ rằng những gì mà con người đang thọ nhận, dù hạnh phúc hay khổ đau, chỉ là những giả hợp của các duyên do chính mình tạo ra, chúng là pháp vô thường, sinh rồi diệt, quan trọng hơn nữa là chúng có thể được chuyển hóa.

Nhưng trong ý nghĩa duyên khởi, con người không thể tự tồn nếu không có mối tương quan tương duyên với cộng đồng nhân loại: thức ăn, nước uống, y phục để mặc, nhà cửa để ở, trường ốc sách vở thầy bạn để học, công tư sở để làm kiếm tiền, xe để di chuyển, chợ quán để mua sắm vật dụng, cơ chế nhà nước để chăm lo phúc lợi cho người dân, truyền thống văn hóa, giáo dục, đạo đức, luân lý, tôn giáo để hun đúc cho con người trưởng thành, v.v.. Không làm sao có thể tính đếm được hết những duyên mà con người phải nương tựa để sinh tồn.

Trong mối tương quan duyên khởi từ bình diện cá nhân đến bình diện cộng đồng, bao giờ cũng có mối tương hệ tương tức, nghĩa là cá nhân vừa là một tập hợp của nhiều duyên trong chính nó, vừa là yếu tố duyên cho cộng đồng xã hội.

Ngược lại, xã hội tự nó cũng là một tập hợp của vô số duyên, vừa là cái duyên cho từng cá nhân hiện hữu trong nó. Từ đó, con người có thể vừa chuyển hóa duyên để hoàn thiện cuộc đời mình mà cũng là góp phần chuyển hóa xã hội. Tương tự như vậy, cộng đồng xã hội nhờ sự chuyển hóa duyên của từng cá nhân mà được hoàn thiện và khi xã hội cải thiện cũng sẽ góp phần to lớn để chuyển hóa duyên cho mỗi cá nhân.

Chính trong ý nghĩa này đã khẳng định khả tính và vai trò chuyển hóa duyên của cá nhân và cộng đồng xã hội hướng đến mục tiêu cao cả mang lại sự giác ngộ và giải thoát cho tất cả mọi người.

Dựa trên khả tính chuyển hóa các duyên ấy, con người có thể tích cực đóng góp vào việc kiến tạo một xã hội nhân sinh bình đẳng, khai phóng, tiến bộ, phú cường và an lạc trong những lãnh vực sinh hoạt hằng ngày như văn hóa, giáo dục, tôn giáo, chính trị, bang giao, kinh tế, v.v.. Ở đây chúng ta thấy có hai nguyên lý nền tảng để từ đó sự kiến tạo xã hội nhân sinh được thực hiện một cách hữu hiệu:

A. Trong tinh thần của đạo lý duyên khởi mục tiêu tối hậu là làm sao đạt đến cảnh giới tự chứng đệ nhất nghĩa đế, tức là dẫn dắt chúng sinh thành tựu mục đích cứu cánh giác ngộ và giải thoát.

Với mục đích ấy, kiến tạo xã hội nhân sinh trong ý nghĩa duyên khởi tức là thực hiện các phương tiện thiện xảo bằng trí tuệ và từ bi hướng dẫn con người thực nghiệm đời sống qua những nấc thang chuyển hóa từ nhân thừa, thiên thừa đến Thanh văn, Duyên giác và Phật thừa. Mọi giai đoạn thực hiện việc kiến tạo xã hội đều nhắm đến việc thăng hoa đời sống trong cả lãnh vực vật chất và tâm linh.

B. Trong tinh thần của đạo lý duyên khởi mọi công cuộc chuyển hóa xã hội nhân sinh đều xây dựng trên mô thức tương quan tương duyên của tất cả mọi thành tố từ đối tượng là con người đến các phương thức thực hiện. Với đối tượng là con người, việc kiến tạo xã hội nhân sinh phải dựa trên mối tương quan tương duyên và bình đẳng giữa tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giai cấp.

Với các phương thức thực hiện, việc kiến tạo xã hội nhân sinh phải được quan tâm, nghiên cứu và thực thi trong mối tương quan tương duyên thực tế của từng lãnh vực cũng như của mọi lãnh vực có quan hệ duyên khởi nhau.

Thí dụ, việc kiến tạo xã hội nhân sinh qua lãnh vực giáo dục cần phải quan tâm, nghiên cứu và thực hiện trong mối tương quan tương duyên với tất cả mọi lãnh vực có mối tương hệ đến, chẳng hạn cơ chế chính trị điều hành quốc gia, bối cảnh truyền thống văn hóa, đạo đức, tôn giáo, thực trạng của nền kinh tế quốc dân, chiều hướng đang diễn ra và sẽ tiến tới của nền giáo dục toàn cầu, những yếu tố then chốt để thực hiện nền giáo dục thành tựu như chương trình giảng dạy, nội dung các môn giảng dạy, phong cách đạo đức, phẩm chất kiến thức và khả năng chuyên môn của các giáo sư, phương thức giảng dạy phù hợp với từng đối tượng là những học sinh, mối tương quan tương duyên không thể thiếu giữa học đường, gia đình, học sinh và xã hội, v.v..

4. Giải thoát:

Đức Phật do quán nghiệm duyên khởi mà thành đạt mục tiêu giác ngộ và giải thoát tối thượng. Cho nên, đức Phật khai thị giáo nghĩa duyên khởi với một ý chỉ rõ ràng là mở ra con đường giác ngộ và giải thoát cho chúng sinh. Đức Phật không dạy giáo nghĩa duyên khởi chỉ để giải thích về căn nguyên của nhận thức, vũ trụ và nhân sinh hầu thỏa mãn những nhu cầu của kiến thức duy lý và siêu hình. Đức Phật không bao giờ tiêu phí thì giờ quý báu của sự nghiệp tu tập và hoằng pháp lợi sinh vào những vấn đề hý luận như vậy.

Con người có được bao nhiêu thời gian bảo đảm là mình còn tồn tại trong thân xác ngũ uẩn này? Không ai có thể xác quyết được điều ấy, bởi vì thân này là vô thường, sự chết có thể đến bất cứ lúc nào, chỉ trong một hơi thở là mạng người đã thay đổi. Vậy hơi thở nào là hơi thở cuối cùng? Tất cả mỗi một hơi thở đều có thể là hơi thở cuối cùng. Như thế làm sao còn có thể chờ đợi để đùa giỡn với sinh tử, để chạy theo con đường quanh co của hý luận?

Các pháp do duyên tụ hợp mà sinh khởi, do duyên ly tán mà hoại diệt, cho nên, không có tự tánh, không thật có. Khi đạo lý duyên khởi khai thị về điều này đã mở ra cho chúng sinh mấy lộ trình giác ngộ và giải thoát như sau:
A. Trên vận đồ tử sinh bất tận của chúng sinh, khổ não đi theo như bóng với hình. Khổ não vì sự thọ sinh, vì bệnh tật, vì già, vì chết, vì thương yêu mà xa lìa, vì oán ghét mà chung đụng, vì mưu cầu mà chẳng được, vì sự bất an thường trực của năm uẩn.

Căn nguyên của mọi khổ não chính là lòng tham lam, sự sân hận, sự si mê, lòng kiêu mạn, sự nghi kỵ, kiến chấp về tự ngã của thân, kiến chấp sai lầm một chiều, tính cố chấp vào quan điểm nhận thức của mình, sự cuồng tín vào giới điều mà mình đã thọ nhâän, quan điểm sai lầm về nhân quả, nghiệp báo, v.v… Nhưng các pháp do duyên mà sinh, cho nên không thường hằng, không cố định, không có tự tánh, vì vậy, chúng sinh có thể thực hiện công cuộc chuyển hóa đời mình để giác ngộ vô minh và giải thoát mọi khổ đau hầu đạt đến niết bàn tịch tịnh. Con đường dẫn đến niết bàn tịch tịnh chính là con đường mà thánh giả đã, đang và sẽ thể nghiệm. Con đường ấy là con đường của ba mươi bảy Phẩm Trợ Đạo, mà tiêu biểu nhất là con đường Tám Thánh Đạo.

B. Duyên nơi sự sinh ra đời mà có già chết ưu bi khổ não, duyên nơi thọ thai mà có sự sinh, duyên nơi đắm trước sắc dục mà có thọ thai, duyên nơi cảm thọ mà có đáém trước sắc dục, duyên nơi xúc chạm mà có cảm thọ, duyên nơi sáu căn mà có xúc chạm với sáu trần, duyên nơi danh sắc của thân ngũ uẩn mà có sáu căn, duyên nơi thức mà có danh sắc, duyên nơi hành nghiệp mà có thức, duyên nơi vô minh mà có hành nghiệp.

Vì thế, chiếu phá vô minh thì hết hành nghiệp, hết hành nghiệp thì không có thức, không có thức thì không có danh sắc, không có danh sắc thì không có sáu căn, không có sáu căn thì không có xúc chạm, không có xúc chạm thì không cảm thọ, không có cảm thọ thì không có ái dục, không ái dục thì không có đắm trước, không có đắm trước thì không có thọ thai, không có thọ thai thì không sinh ra, không sinh ra thì không già chết ưu bi khổ não.

Nói tóm lại, diệt trừ được vô minh và ái dục thì chấm dứt con đường sinh tử và khổ não. Muốn phá vô minh và diệt trừ ái dục thì phải thực nghiệm giới-định-tuệ và quán nghiệm đạo lý Mười hai nhân duyên mỗi ngày mỗi giờ mỗi giây phút trong đời sống, tinh tấn không giãi đãi, không buông lung.

C. Các pháp do duyên hợp mà có cho nên, không thật có, là giả có như lông rùa, sừng thỏ, chỉ là mộng tưởng điên đảo của tâm vô minh vọng động của chúng sinh. Như thế vô minh cũng không thật có, ngũ uẩn cũng không thật có, khổ vui cũng không thật có. Vấn đề còn lại đối với chúng sinh là làm sao liễu ngộ được diệu nghĩa của duyên khởi giả danh này để khai phát năng lực vi diệu của trí tuệ bát nhã nhờ đó mà siêu việt lên trên mọi vọng niệm, mọi triền phược để thể nhập vào cảnh giới tự chứng của Thánh trí, đó là Trung đạo đệ nhất nghĩa đế.

Trong ý nghĩa duyên khởi, các pháp vốn không tự hữu mà là tương quan tương duyên nhau, cũng vậy, con người không thể an hưởng sự giải thoát cho chính mình trong khi muôn vạn chúng sinh đang sống đau khổ chung quanh. Sự giải thóat toàn vẹn không thể thành đạt một cách rốt ráo nếu như con người không đồng lúc nổ lực giải thoát những khổ não chung quanh. Bồ tát đạo là lý tưởng chăm lo sự giác ngộ và giải thoát cho mọi người đồng lúc với sự thực nghiệm ở tự thân. Hình ảnh của chư Bồ tát là biểu tượng cao vời cho mục đích giác tha ấy.

Đó cũng chính là thệ nguyện ra đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni ở thế giới này, cũng như chư Phật trong mười phương thế giới, như Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Phẩm Phương Tiện thứ hai đức Phật dạy:

Chư Phật vị nhất đại sự nhân duyên xuất hiện ư thế, dục linh chúng sinh khai, thị, ngộ, nhập Phật chi tri kiến.
Dịch: Chư Phật vì một nhân duyên lớn mà xuất hiện ở đời, đó là muốn khiến cho chúng sinh được khai mở, chỉ bày, liễu ngộ và chứng nhập vào tri kiến của Phật.

VI. KẾT LUẬN:

Có thể nói rằng trong cuộc cách mệnh tâm linh vĩ đại có một không hai trong lịch sử nhân loại xưa nay mà đức Phật đã thực hiện cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ thì giáo nghĩa duyên khởi chính là pháp khí trọng yếu nhất. Duyên khởi nhổ bậc gốc rễ của các chủ thuyết và tôn giáo chủ trương có đấng sáng tạo vũ trụ nhân sinh có quyền năng tối thượng.

Duyên khởi dựng lại niềm tin chánh tín cho con người đối với phẩm giá cao quý của sự sống, của kiếp nhân sinh và đồng thời khai thị khả tính ưu việt giác ngộ và giải thoát nơi tất cả chúng sinh.

Duyên khởi tẩy sạch mọi cấu uế và cố chấp nơi tâm thức của chúng sinh do vô minh tích tập từ vô lượng kiếp về sự thật hữu của các pháp, trong đó có tự ngã. Tất cả các pháp đều do duyên mà khởi sinh, không có tự tánh cố định, là giả danh, không thật, chúng sinh vì vọng tưởng điên đảo mà chấp giả làm thật, cho nên triền miên trong sinh tử luân hồi và gánh chịu khổ não.

Hiểu biết được đạo lý duyên khởi là bước khởi đầu tiên quyết để có thể thâm nhập vào biển Pháp tạng sâu xa vi diệu của chư Phật. Từ đó làm hành trang đầy đủ để tiếp tục tinh tấn đi lên trên con đường tìm cầu giác ngộ và giải thoát cho tự thân và tha nhân.

Tuy nhiên, giáo pháp của đức Phật không phải là hệ thống lý thuyết mở cửa cho những hý luận. Giáo pháp của đức Phật là liều thuốc để chữa lành bệnh khổ não cho chúng sinh. Người bệnh thì phải tự siêng năng uống thuốc. Người đau khổ thì phải tinh tấn nỗ lực thực nghiệm lời Phật dạy.

Trong sự thực nghiệm vững chãi và thường trực, con người mới cảm nhận được lợi lạc vô biên của giáo pháp giác ngộ và giải thoát đó.