CÙNG MỘT CỖ XE – Bình Anson

cùng một cỗ xe

Phật giáo ngày nay có nhiều tông phái với các truyền thống khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta thường phân biệt hai tông phái chính: Phật Giáo Đại Thừa (Mahayana), và Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravada). Phật Giáo Mahayana thịnh hành ở các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Triều Tiên, và Nhật Bản. Trong khi đó, Phật Giáo Theravada được lưu truyền rộng rãi ở Tích Lan (Sri Lanka), Miến Điện, Thái Lan, Cam Bốt, và Lào.

Riêng Việt Nam có lẽ là một quốc gia Á Châu đầu tiên mà cả hai tông phái lớn này đều được chính thức thừa nhận và đã cộng tác hoạt động trong nhiều thập niên qua. Trong những năm gần đây lại có những dự án dịch thuật các kinh điển của cả hai truyền thống, từ các văn bản gốc tiếng Hán và tiếng Pali, sang tiếng Việt hiện đại. Trong bài viết ngắn dưới đây, tôi xin mạn phép trình bày sơ lược về nguồn gốc của Mahayana và Theravada, lồng trong bối cảnh lịch sử phát triển của đạo Phật tại Ấn Độ trong khoảng 1000 năm đầu tiên sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn. Tiến trình đó được chia làm ba thời kỳ: thời kỳ nguyên thủy (100 năm), thời kỳ A Hàm (400 năm), và thời kỳ chuyển hóa (500 năm).

1. Thời Kỳ Nguyên Thủy

Trong 45 năm truyền dạy đạo pháp, Đức Phật đã để lại rất nhiều bài giảng, trong nhiều hoàn cảnh khác nhau, cho nhiều người thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Các bài giảng nầy thường được các vị tu sĩ đệ tử ghi nhớ, sắp xếp lại, truyền khẩu cho nhau, và dùng để giảng lại cho người khác. Khi được phân phối đi hoằng dương đạo pháp ở các vùng khác nhau, các bài giảng nầy thường được chuyển dịch ra tiếng địa phương và điều nầy được Đức Phật chấp nhận và khuyến khích [1, t. 42].

Có một lần, hai vị đại đức Yamelu và Tekula xin phép Đức Phật để ghi chép và chuyển dịch những bài giảng của Ngài sang tiếng Vedic, vốn là văn tự của giới quý tộc dùng để phúng tụng kinh Vệ Đà, để bảo đảm tính nhất quán và chính xác của các bài kinh, nhưng Phật không đồng ý. Ngài cho rằng các bài giảng của Ngài phải được phổ biến đến mọi người qua ngôn ngữ địa phương để họ có thể nghe, hiểu và thực hành được [1, t. 43]. Cũng vì vậy mà dù rằng Đức Phật dùng tiếng Magadhi (Ma Kiệt Đà) để giảng pháp, nhưng các bài giảng đã được truyền khẩu bằng nhiều thứ tiếng khác nhau.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, ngài Ma Ha Ca Diếp triệu tập một hội đồng gồm khoảng 500 tu sĩ tại vùng đồi núi ngoại thành Vương Xá (Rajagaha) để kết tập kinh điển, sau nầy được gọi là Đại Hội Kết Tập Lần Thứ Nhất. “Kết tập” có nghĩa là thu góp, tập hợp lại, ôn lại, đừng để cho tán thất. Tiếng Phạn là “sangiti”, có nghĩa là cùng nhau tụng lại (chanting together). Trong Đại Hội nầy, ngài Ma Ha Ca Diếp là chuœ quaœn, ngài A Nan Đa đọc lại các bài kinh giaœng và ngài Ưu Ba Ly đọc lại các điều luật. Sau lần kết tập đầu tiên nầy, bộ Luật Tạng và bộ Kinh Tạng được đúc kết [2, t. 69]. Lúc ấy, Kinh Tạng được chia ra thành 4 bộ chính: Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng Bộ, và Tăng Chi Bộ.

2. Thời Kỳ A Hàm:

Sau đó, nhiều phái đoàn truyền giáo được gưœi đi các nơi để hoằng dương đạo pháp, từ miền Trung Ấn đến mạn Nam và mạn Tây xứ Ấn Độ. Trong thời kỳ nầy có nhiều biến động, thay đổi bố cục chính trị giữa các vương quốc trong vùng, và vì thế có nhiều thay đổi trong sinh hoạt xã hội, tạo aœnh hươœng đến các sinh hoạt tăng đoàn, nhất là tại những nơi mà Phật giáo còn mới, chưa vững mạnh. Nhiều tu sĩ treœ trong những vùng nầy bắt đầu caœm thấy có nhu cầu cần sưœa đổi giới luật và lề lối sinh hoạt để phù hợp với đời sống địa phương.

Một trăm năm sau ngày Đức Phật nhập diệt thì có một Đại Hội Kết Tập Lần Thứ II tại thành Vaisali với 700 tu sĩ, mục đích chính là để giaœi quyết các tranh chấp về 10 điều luật căn baœn, trong đó có luật cấm các tu sĩ thu nhận vàng bạc do dân chúng cúng dường [2, t. 80]. Nhưng thêm vào đó, Đại Hội cũng duyệt lại các kinh điển, và kết tập một số bài kinh giaœng không được đúc kết lúc trước. Đó là những cơ sơœ để thành hình bộ kinh thứ 5, Tiểu Bộ, về sau nầy [3, t. 50-56].

Vì Đại Hội quyết định giữ nguyên 10 điều giới luật căn baœn mà không sưœa đổi, một số tu sĩ treœ không hài lòng và bắt đầu có khuynh hướng ly khai. Đây là mầm mống đưa đến sự phân chia đầu tiên trong tăng đoàn: bộ phái Trươœng Lão Thuyết Bộ (Sthaviravada) gồm các tu sĩ có khuynh hướng baœo thuœ, và Đại Chúng Bộ (Mahasanghika) gồm các tu sĩ có khuynh hướng caœi cách [2, t. 81].

Một trăm năm sau đó, một Đại Hội Kết Tập Lần Thứ III được triệu tập dưới thời vua A Dục (Asoka), 268-232 T.C.N. (Trước Công Nguyên). Dưới sự chỉ đạo cuœa ngài Mục Kiền Liên Tu Đế (Moggaliputta Tissa), Đại Hội nầy gồm khoaœng 1000 tu sĩ đúc kết Luận Tạng và Kinh Tạng (giờ đây gồm 5 Bộ Kinh: Trường Bộ, Trung Bộ, Tiểu Bộ, Tương Ưng, và Tăng Chi) [2, t. 109]. Thêm vào đó, tổ chức tăng đoàn theo truyền thống Trươœng Lão Thuyết được chấn chỉnh lại theo đúng các giới luật.

Trong thời kỳ nầy, Đại Chúng Bộ bắt đầu phân chia ra thành nhiều tông phái. Nhiều nhà sưœ học ghi nhận có tất caœ bốn lần phân chia, tổng cộng là 7 tông phái trong vòng 200 năm. Bên cạnh đó, Trươœng Lão Thuyết Bộ cũng bị phân chia baœy lần, tạo ra mười một tông phái [2, t. 111]. Vì vậy mà ngày nay có nhiều sách viết về “mười tám tông phái”, cộng thêm với hai bộ phái đầu tiên [4, t. 123]. Tuy nhiên, cũng có sách đã liệt kê đến 34 tông phái [2, t. 115].

Vua A Dục là một vị vua rất sùng bái đạo Phật, và đã đóng góp rất nhiều trong công cuộc phát huy đạo pháp. Ngài đã gưœi nhiều phái đoàn đi truyền giáo nhiều nơi. Trong đó có Đại đức Mahinda, một trong những người con cuœa ngài, cùng với 4 vị tu sĩ được gưœi sang đaœo Tích Lan để truyền bá đạo Phật. Một mặt khác, đạo Phật cũng được phát triển rộng rãi ơœ mạn Tây Bắc, và trung tâm Phật giáo ơœ Kashmir trơœ thành một trong những trung tâm chính thời đó. Trong thời kỳ nầy, các tư tươœng Đại thừa bắt đầu thành hình, và thâm nhập vào một vài tông phái cuœa Đại Chúng Bộ, chẳng hạn như tông Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravadin).

3. Thời Kỳ Chuyển Hóa: Theravada.

Khi Đại đức Mahinda và phái đoàn truyền giáo sang Tích Lan, ngài được vua Tích Lan giúp xây cất một ngôi chùa lớn, gọi là Đại Tự Viện (Mahavihara), và từ đó thành lập tông phái Đại Tự Viện ơœ xứ nầy. Một trăm năm sau thì một ngôi chùa khác, tự viện Abhayagiri, được xây cất và các tu sĩ ơœ chùa nầy bắt đầu tạo aœnh hươœng lớn mạnh ơœ Tích Lan. Thêm vào đó, cũng có nhiều nhóm tu sĩ với khuynh hướng đại thừa từ Ấn Độ sang hoạt động tại xứ nầy, nhưng không có aœnh hươœng sâu rộng. Sự tranh giành aœnh hươœng giữa hai tông phái nguyên thuœy Đại Tự Viện và Abhayagiri kéo dài qua nhiều thế kyœ, và chỉ chấm dứt vào khoaœng thế kyœ thứ 12, khi nhóm Đại Tự Viện được vua Parakkamabahu chính thức thừa nhận, kết tạo thành tông phái Theravada như chúng ta thấy được ngày nay.

Vào những thập niên cuối cùng trước công nguyên (29-17 T.C.N.), khoaœng 500 tu sĩ phái Mahavira tập họp lại và bắt đầu cho viết các bộ Kinh, Luật và đúc kết các bài tham luận (Luận) trên một loại giấy bằng lá bối. Lần đầu tiên, sau gần 500 năm truyền khẩu, ba bộ Tạng được ghi chép hoàn toàn trên giấy, và từ đó bộ Tam Tạng kinh điển hệ Pali được tạo ra và lưu truyền cho đến ngày nay. Đó là Đại Hội Kết Tập Lần Thứ IV. Sơœ dĩ văn tự Pali được dùng vì đó là ngôn ngữ chính thống miền Tây Ấn và là ngôn ngữ sưœ dụng bơœi ngài Mahinda. Nhờ tình trạng xã hội tương đối ổn định và đaœo Tích Lan tương đối biệt lập nên các bộ Tam Tạng nầy đã được gìn giữ nguyên vẹn, dù rằng trong khi sao chép chuyển truyền từ đời nầy sang đời khác, có thể có một vài sưœa đổi, sơ sót. Nhưng đó chỉ là các đoạn nhoœ, không quan trọng [3, t. 59-60]. Từ đó, Đại Tạng Kinh được truyền bá sang các nước lân cận như Miến Điện, Thái Lan, Lào, và Cam Bốt. Ngoài ra, một số các bài luận thuyết cuœa các danh sư trong thời kỳ nầy, như bộ Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) cuœa ngài Buddhaghosa (Phật Âm) trước tác trong thế kyœ 4 C.N., cũng được quý trọng, gìn giữ và lưu truyền cho đến ngày nay.

Danh từ Theravada là tiếng Pali, đồng nghĩa với chữ Sthaviravada cuœa tiếng Sanskrit, có nghĩa là giáo thuyết cuœa các vị trươœng lão (Doctrine of the Elders). Sách Tàu thường dịch là Trươœng Lão Bộ, có khi dịch là Thượng Tọa Bộ, nhưng dịch sát nghĩa là Trươœng Lão Thuyết Bộ, là một trong hai bộ phái chính từ thời kỳ nguyên thuœy. Tuy nhiên, danh từ Theravada ngày nay thường được dùng để chỉ truyền thống Phật giáo Nam tông, bắt nguồn từ Tích Lan, chịu nhiều aœnh hươœng cuœa nhóm Đại Tự Viện (Mahavihara), do Đại đức Mahinda và các tu sĩ thuộc tông phái Phân Biện Thuyết Bộ (Vibhajavada), một nhánh cuœa Trươœng Lão Thuyết Bộ, truyền bá vào Tích Lan khoaœng 200 năm trước Công nguyên. So với các tông phái khác vẫn còn hoạt động ngày nay, truyền thống Theravada có thể được xem như là một truyền thống tương đối lâu đời nhất, tương đối gần với thời kỳ nguyên thuœy nhất.

4. Thời Kỳ Chuyển Hóa: Mahayana

Khoaœng 200 năm sau ngày Phật nhập Niết Bàn, phái Đại Chúng Bộ bành trướng tại nhiều vùng cuœa xứ Ấn Độ và bắt đầu phân hóa thành nhiều tông phái, trong đó có tông phái Lokottaravada (Thuyết Xuất Thế). Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu, các tông phái đều sưœ dụng kinh điển A hàm bằng ngôn ngữ Sanskrit, mặc dù đã có một vài sưœa đổi để hàm chứa tư tươœng đại thừa. Cho đến nay, các sưœ liệu đều chỉ rằng kinh điển đại thừa bắt đầu xuất hiện trong những năm cuối cùng trước Công nguyên, lúc đầu là một vài bài kinh ngắn, về sau được bổ sung thêm, và kết tập lại thành những bộ kinh lớn.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa biết đích xác là danh xưng Mahayana – Đại Thừa bắt đầu được sưœ dụng vào lúc nào, bắt nguồn từ tông phái nào trong thời kỳ A Hàm. Có lẽ đó là kết tụ cuœa những tiến hóa tư tươœng trong mấy trăm năm sau khi có sự phân hóa tăng đoàn lần đầu tiên. Có học giaœ cho rằng Mahayana bắt nguồn từ Đại Chúng Bộ vì cùng có những ý niệm phóng khoáng trong giới luật. Tuy nhiên các ý tươœng cuœa tông phái Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ (Sarvastivadin), một tông chính cuœa Trươœng Lão Bộ, cũng được thu dụng và hàm chứa trong kinh điển Mahayana. Có học giaœ cho rằng Mahayana phát nguồn từ các tu sĩ có tư tươœng caœi cách từ nhiều tông phái khác nhau, như tông Nhất Thuyết Bộ (Ekavyavaharika), Thuyết Xuất Thế Bộ (Lokottaravadin), Kế Dẫn Bộ (Kaukutika), v.v… [2, t. 261].

Kinh điển Đại thừa bắt đầu xuất hiện nhiều hơn, có hệ thống hơn, từ thế kyœ 1 C.N. trơœ về sau. Tiếc rằng các bộ kinh đầu tiên, như Kinh Duy Ma Cật, Liễu Ba La Mật, Bồ Tát Tạng, Tam Pháp Kinh, v.v… nay không còn nguyên baœn Sanskrit, mà chỉ còn dịch baœn chữ Hán và Tây Tạng, nên không thể đối chiếu, truy tầm nguồn gốc [2, t. 276]. Tuy nhiên các bộ kinh đại thừa quan trọng khác như Đại Bát Nhã, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm, A Di Đà vẫn còn các baœn gốc tiếng Sanskrit [2, t. 275-295].

Sự xuất hiện các bộ kinh đại thừa và sau đó là các quyển luận thuyết cuœa các ngài Mã Minh, Long Thọ, Long Trí, Đề Bà, Vô Trước, Thế Thân trong bốn thế kyœ đầu Công nguyên đánh dấu sự thành hình và bành trướng nhanh chóng cuœa Phật giáo Mahayana trong toàn xứ Ấn Độ. AŒnh hươœng nầy đã dần dần lan rộng sang Trung Hoa, và từ đó có những phong trào truyền bá, chuyển dịch kinh điển ơœ Trung Hoa qua nhiều thế kyœ, từ thế kyœ 1 đến thế kyœ 7 C.N., qua ba ngõ giao thông chính: đầu tiên là qua miền Trung Á, sau đó là qua ngõ Nepal – Tây Tạng, và cuối cùng là bằng đường biển.

5. Cùng Một Cỗ Xe

Tóm lại, trong 100 năm sau khi Đức Phật tịch diệt, giữa Đại Hội Kết Tập Lần I và II, Đạo Phật được xem như là ơœ trong thời kỳ nguyên thuœy, với một tăng đoàn tương đối còn ít, có nhiều liên hệ chặt chẽ, giới luật thuần nhất, dưới sự lãnh đạo cuœa các cao tăng vốn đã xuất gia và thọ giới khi Đức Phật còn tại thế.

Sang thời kỳ A Hàm, kéo dài khoaœng 400 năm từ sau Đại Hội II cho đến đầu Công nguyên, các mầm mống phân hoá đã bắt đầu xuất hiện, với sự phân chia thành hai Bộ, và sau đó tiếp tục phân hóa thành 18 tông. Qua Đại Hội III được tổ chức dưới triều vua A Dục, việc kết tập Kinh Tạng và Luật Tạng xem như đã hoàn tất. Mặc dù trong thời kỳ nầy các kinh A Hàm và giới luật nguyên thuœy vẫn được các tông phái tôn trọng – với những cách diễn dịch khác nhau – các ý tươœng canh tân, đại chúng hóa đạo pháp bắt đầu thành hình, nhất là trong thế kyœ cuối cùng trước Công nguyên.

Thời kỳ tiếp theo là thời kỳ chuyển hóa, kéo dài khoaœng 500 năm cho đến đầu thế kyœ 6. Trong thời kỳ nầy, Phật giáo bắt đầu có hai hướng phát triển khác nhau, và kéo dài aœnh hươœng đến ngày nay. Từ Ấn Độ, đạo Phật được truyền về hướng Nam, sang đaœo Tích Lan, và tạo lập một căn baœn vững chắc ơœ đó. Đại Hội Kết Tập lần IV tại Tích Lan đánh dấu việc ghi chép toàn bộ Tam Tạng Kinh – Luật – Luận trên giấy, và được lưu truyền cho đến ngày nay qua truyền thống Theravada.

Cũng trong thời kỳ nầy, các tư tươœng canh tân cuœa Đại thừa đã bắt đầu tạo aœnh hươœng lớn mạnh, qua các bộ kinh điển mới và qua các bộ luận thuyết cuœa các danh tăng vào giữa và cuối thời kỳ nầy. Các tông phái Đại thừa bắt đầu xuất hiện và tăng trươœng nhanh chóng. Đạo Phật truyền sang mạn Tây Bắc, tạo lập trung tâm Phật giáo ơœ Kashmir, và từ đó truyền vào Trung Hoa.

Khi đạo Phật bắt đầu bành trướng ơœ Trung Hoa, tăng đoàn ơœ đó đã thu nhận và chuyển dịch rất nhiều kinh điển, từ nhiều nguồn gốc và tông phái khác nhau, và qua nhiều thời kỳ lịch sưœ. Các bộ Tam Tạng nguyên thuœy được dịch ra chữ Hán từ hai, ba tông phái khác nhau, chẳng hạn như từ tông Thuyết Xuất Thế Bộ và Thuyết Nhất Thiết Hữu Bộ. Các bộ kinh chính cuœa Đại thừa cũng thế, có nhiều thay đổi theo thời gian, và được bổ sung, sưœa chữa nhiều lần. Có khi các bộ kinh nầy chỉ được truyền khẩu bằng tiếng Phạn vào Trung Hoa, rồi sau đó mới được dịch, nhuận sắc và ghi chép [5, t. 365-368]. Có khi các danh tăng Trung Hoa du hành sang Ấn Độ học tập rồi mang về các bộ kinh điển để phiên dịch và phổ biến trong nước. Caœ hai truyền thống chính – Theravada và Mahayana – đều có mặt tại xứ nầy trong thời gian đó.

Để sắp xếp và thống nhất nguồn gốc cuœa các loại kinh điển, các tăng sĩ thời đó đã đưa ra nhiều giaœ thuyết khác nhau. Trong đó, thuyết cuœa ngài Trí Giaœ, tông Thiên Thai, là phổ thông nhất và vẫn còn thấy lưu dụng cho đến ngày nay trong một số sách Phật giáo. Ngài cho rằng Đức Phật đã giaœng kinh pháp trong 5 thời kỳ: Hoa Nghiêm, A Hàm, Phương Đẳng, Bát Nhã, và Pháp Hoa — Đại Niết Bàn [5, t. 442], và vì thế có nhiều loại kinh điển từ nhiều tông phái khác nhau. Tuy nhiên, đây chỉ là một lối giaœi thích để tổng hợp và hệ thống hóa toàn bộ kinh điển mà thôi. Giaœ thuyết nầy không có chứng liệu lịch sưœ, và không được các nhà nghiên cứu sưœ học Phật giáo ngày nay công nhận [5, t. 305-310; 6, t. 151-152].

Tại Tích Lan cũng thế, trong những thế kyœ đầu tiên, caœ hai truyền thống Mahayana và Theravada đều có mặt tại xứ nầy, mặc dù truyền thống Theravada có aœnh hươœng mạnh hơn, như ngài Huyền Trang ghi nhận trong quyển Tây Vực Ký cuœa ngài. Ngài cũng ghi nhận là có các nhóm tu sĩ phái Đại Tự Viện, tuy là Theravada nhưng có tinh thần đại thừa rất cao [2, t. 275]. Còn tại Ấn Độ, các ngài Huyền Trang và Pháp Hiển đều ghi nhận sự hoạt động hài hòa cuœa nhiều tông phái khác nhau trong nhiều thế kyœ.

ƠŒ Việt Nam, caœ hai tông phái Mahayana và Theravada đều được công nhận và cùng chung nhau hoạt động trong công tác hoằng dương đạo pháp. Hiến chương Phật giáo Việt Nam soạn ra năm 1963 đã chính thức xác nhận điều đó [4, t. 394]. Tuy nhiên, để tránh hiểu lầm, chúng ta không nên dùng chữ “tiểu thừa” để gọi tông phái Theravada. Điều nầy thường gặp trong một số sách báo và bài viết về đạo Phật. Thật ra, “Tiểu thừa” là dịch từ chữ “Hinayana”—cỗ xe nhoœ—một chữ dùng rất nhiều trong kinh điển Đại thừa, có hàm ý chê bai, khinh miệt.

Khi đọc kinh điển, chúng ta cần phaœi hiểu rõ hoàn caœnh lịch sưœ xã hội khi các kinh nầy được tạo ra. Các kinh Đại thừa xuất hiện vào cuối thời kỳ A Hàm, nghiã là khoaœng 400-500 năm sau khi Đức Phật tịch diệt. Đây là các tư tươœng caœi cách để đại chúng hóa đạo Phật, đối kháng lại đường lối thuœ cựu, giáo điều, chấp kiến và vị kyœ cuœa một số cao tăng trong giới lãnh đạo tăng đoàn cuœa nhiều tông phái thời bấy giờ, chứ không phaœi để ám chỉ riêng biệt một tông phái nào caœ [2, t. 257].

Khuynh hướng ngày nay là dùng chữ Mahayana và Theravada nguyên ngữ để chỉ hai tông phái chính nầy. Khi dịch sang Việt ngữ, thường thì chúng ta dùng danh từ Phật Giáo Đại Thừa và Phật Giáo Nguyên Thuœy, nhưng cũng có sách dùng danh từ Phật Giáo Bắc Truyền (Bắc Tông) và Phật Giáo Nam Truyền (Nam Tông) để chỉ hướng truyền đạo cuœa Phật Pháp trong thời kỳ chuyển hóa [7, t. 202].

Dù là tông phái nào đi nữa, đó cũng chỉ là giáo pháp phương tiện giúp ta tu tâm tịnh ý để được an lạc và giaœi thoát. Cần phaœi hiểu rõ nguồn gốc và hoàn caœnh lịch sưœ trong tiến trình phát triển các bộ kinh điển và tông phái, để có được một sự thông caœm, hòa đồng và tương kính. Trong Kinh Pháp Hoa, Phật có nói: “Chư Phật chỉ dùng một cỗ xe duy nhất đưa đến giaœi thoát (Nhất thừa Phật đạo), không có hai mà cũng chẳng có ba”, và trong Tiểu Bộ Kinh cuœa Kinh Tạng Nguyên Thuœy, Ngài cũng dạy rằng: “Như tất caœ các đại dương đều có cùng một vị mặn, các giáo pháp cuœa Ta cũng chỉ có một vị duy nhất, đó là vị giaœi thoát.”

Perth, Western Australia

Tháng 04, 1996 (PL 2533)

Tham Khảo:

[1]. Nhất Hạnh (1990), Con Đường Chuyển Hóa. NXB Lá Bối, San Jose.

[2]. Hirakawa Akira (1993), A History of Indian Buddhism. Motilal Banarsidass, Delhi.

[3]. Samanera Bodhesakho (1984), Beginnings: The Pali Suttas. Buddhist Publication Society, Kandy.

[4]. Đức Nhuận (1983), Phật Học Tinh Hoa. Phật Học Viện Quốc Tế, California.

[5]. Kenneth Chen (1964), Buddhism in China. Princeton University Press, Princeton.

[6]. Noble R. Reat (1994), Buddhism – A History. Asian Humanities Press, Berkeley.

[7]. Thích Minh Châu và Minh Chi (1991), Từ Điển Phật Học Việt Nam. NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội.